Khóa luận Du lịch Yên Tử và những giải pháp để phát triển

Du lịch là một trong những ngành kinh tế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với các giá trị văn hoá, xã hội với môi trường tự nhiên. Ngày nay, nhu cầu đời sống con người ngày càng nâng cao, áp dụng những tiến bộ về khoa hoc kỹ thuật ngày càng tăng cùng với sự tăng trưởng kinh tế, xu thế hoà nhập nhu cầu đa dạng của con người muốn đươc giao lưu để hiểu biết chính mình, hiểu xã hội,thiên nhiên.đang trở thành hiện tượng phổ biến do đó đã dẫn đến sự bùng nổ trong hoạt động du lịch có tính phổ cập toàn cầu. Ngày nay, du lịch càng phát triển với nhiều loại hình như du lịch sinh thái,du lịch văn hoá, thăm quan nghỉ dưỡng. du lịch mang lại sự thoải mái cho du khách về nhu cầu giải trí,cân bằng trạng thái,tinh thần, thể lực sau ngày lao động mệt nhọc vất vả của nếp sống công nghiệp – tuy nhiên, trong một thời gian dài, việc phát triển du lịch mới chỉ quan tâm tới việc xây dựng các khách sạn, nhà hàng, các sản phẩm du lịch với mục đích thu nhập nhiều hơn lượng du khách. Việc làm này đã mang lại một nguồn lợi đáng kể, song cũng tiềm ẩn những tác động tiêu cực hủy hoại các sinh thái và nguy cơ ô nhiễm môi trường, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý làm biến đổi các giá trị văn hoá truyền thống và huỷ hoại các khu di tích lịch sử.

doc45 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 2302 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Du lịch Yên Tử và những giải pháp để phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Du lịch là một trong những ngành kinh tế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với các giá trị văn hoá, xã hội với môi trường tự nhiên. Ngày nay, nhu cầu đời sống con người ngày càng nâng cao, áp dụng những tiến bộ về khoa hoc kỹ thuật ngày càng tăng cùng với sự tăng trưởng kinh tế, xu thế hoà nhập nhu cầu đa dạng của con người muốn đươc giao lưu để hiểu biết chính mình, hiểu xã hội,thiên nhiên...đang trở thành hiện tượng phổ biến do đó đã dẫn đến sự bùng nổ trong hoạt động du lịch có tính phổ cập toàn cầu. Ngày nay, du lịch càng phát triển với nhiều loại hình như du lịch sinh thái,du lịch văn hoá, thăm quan nghỉ dưỡng... du lịch mang lại sự thoải mái cho du khách về nhu cầu giải trí,cân bằng trạng thái,tinh thần, thể lực sau ngày lao động mệt nhọc vất vả của nếp sống công nghiệp – tuy nhiên, trong một thời gian dài, việc phát triển du lịch mới chỉ quan tâm tới việc xây dựng các khách sạn, nhà hàng, các sản phẩm du lịch với mục đích thu nhập nhiều hơn lượng du khách. Việc làm này đã mang lại một nguồn lợi đáng kể, song cũng tiềm ẩn những tác động tiêu cực hủy hoại các sinh thái và nguy cơ ô nhiễm môi trường, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý làm biến đổi các giá trị văn hoá truyền thống và huỷ hoại các khu di tích lịch sử. Khu di tích lịch sử danh thắng Yên Tử là một khu du lịch thuộc thị xã Uông bí đang ngày càng phát triển và thu hút được sự chú ý của du khách và các nhà đầu tư. Trong những năm gần đây, du lịch Yên Tử đã có những bước chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả đáng kể. Hạ tầng cơ sở du lịch được đầu tư và cải thiện, cơ sở du lịch và phương tiện, thiết bị phục vụ du lịch được tăng cường; hệ thống sổ theo dõi đươc thiết lập; đội ngũ cán bộ, nhân viên trong Ban đã có bước trưởng thành. số lượng khách về thăm quan lễ phật Yên Tử ngày càng tăng: năm 2001 là 22 vạn lượt khách,năm 2002: 33 vạn lượt khách, năm 2003: 35 vạn lượt và năm 2004: 48 vạn lượt khách. Công tác quản lý, tổ chức hoạt động du lịch tại Yên Tử góp phần vào qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cải thiện đời sống cho người dân địa phương, tạo ra tiền đề quan trọng để đẩy nhanh tốc độ phát triển du lịch Yên Tử nói riêng và du lịch Quảng Ninh nói chung trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên trong thời gian qua, du lịch Yên Tử kết quả đạt được còn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của khu di tích. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch vừa đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao đồng thời bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc.Chính vì vậy mà tôi đã chọn vấn đề: “Du lịch Yên Tử và những giải pháp để phát triển’’ làm đầu đề cho khoá luận tốt nghiệp của mình. Nghiên cứu về sự phát triển du lịch Yên Tử để đưa ra những giải pháp góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển du lịch khu di tích danh thắng Yên Tử thực sự trở thành khu du lịch hấp dẫn đối với khách trong nước và khách quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả của ngành công nghiệp không khói, góp phần đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế – xã hội trên địa bàn thị xã Uông Bí. Do hạn chế về thời gian cũng như trình độ mà khoá luận chỉ tập trung nghiên cứu một số địa điểm chính, mang tính đại diện và là nơi thu hút nhiều du khách đó là: Khu vực trung tâm khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử (Từ chùa giải oan lên đến chùa đồng) Từ chùa Hoa Yên đi Thác vàng.Từ HoaYên đi thác Bạc, am Hoa, am Dược /. Trong quá trình làm khoá luận việc thu thập các tài liệu liên quan là rất quan trọng và cần thiết vì vậy chúng tôi đã thu thập những thông tin, tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, lịch sử, quy hoạch phát triển du lịch và một số nghiên cứu về hoạt động du lịch Yên Tử làm cơ sở cho những phân tích nghiên cứu đặt ra đối với khoá luận. Khoá luận đã sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp và phân tích hệ thống. Do đó đã sử dụng đặc biệt có hiệu quả trong nghiên cứu tự nhiên và tổ chức khai thác lãnh thổ du lịch. Phương pháp điều tra, phỏng vấn đã giúp chúng tôi thu nhập một cách nhanh chóng và khách quan cũng như có tính chính xác cao, chúng tôi tiến hành phỏng vấn các cá nhân và tổ chức có liên quan tới khu vực nghiên cứu, khi áp dụng phương pháp này việc sử dụng bảng hỏi kết hợp phỏng vấn chính thức được thực hiện. Đối tượng chủ yếu là khách thập phương, các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch và người địa phương. Kết cấu của khoá luận tốt nghiệp gồm 3 chương. Chương I: Tiềm năng du lịch. Chương II: Hiện trạng phát triển du lịch. Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển du lịch Yên Tử bền vững. CHƯƠNG I: TIỀM NĂNG DU LỊCH I.1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÀI NGUYÊN DU LỊCH I.1.1 Vị trí địa lý Yên Tử thuộc xã Thượng Yên Công – Thị xã Uông Bí, có toạ độ địa lý: + Từ 210 05 đến 210 09 vĩ độ Bắc. + Từ 1000 43 đến 1000 45 độ Kinh đông. Phía Bắc: Giáp tỉnh Bắc Giang, phía nam giáp đường 18 A. Phía Tây: Giáp huyện Đông Triều, phía Đông giáp khu vực Than Thùng xã Thượng Yên Công, Uông bí. Tổng diện tích tự nhiên 2.686 ha thuộc 3 khoảng của tiểu khu 9, 9 khoảng thuộc tiểu khu 32 và 10 khoảng thuộc tiểu khu 36. I.1.2 Địa hình, địa thế Yên tử được giới hạn bởi dãy đông chính Yên Tử với đỉnh cao nhất là 1068 m hai vai là các đỉnh 600 m và 908 m, có 2 dãy dòng phụ chạy theo hướng Bắc Nam. Phía Bắc là dãy đông chính của Yên Tử; phía Đông từ đỉnh 908 m về suối Bãi Dâu; phía Tây từ đỉnh 600 m đổ xuống ngọn suối chính, suối Vàng Tân, phía Nam giáp đường 18 A từ suối Vàng Tân đến suối Bãi Dâu. Địa hình ở đây bị chia cắt mạnh, độ dốc bình quâ từ 200- 250 có một số nơi độ dốc có thể đạt tới trên 350, núi đất xen lẫn núi đá và có đỉnh cao nhất của dãy Yên Tử. Hệ thống dòng chính và dòng phụ của khu vực dự án đã ôm trọn hệ thuỷ suối Giải Oan và một mái thu nước của hệ thuỷ suốt Vàng Tân. I.1.3 Địa chất thổ nhưỡng Đá mẹ: nền địa chất của Yên Tử nằm trong hệ địa chất của Vòng cung Đông Triều được hình thành từ kỳ đệ tứ qua các cuộc vận động tạo sơn với các loại đá mẹ chính như sau: sa thạch, cuội kết, sỏi sạn kết và phù sa cổ. Các loại đất chính: Đất Feralit màu vàng, vàng sáng vùng núi phát triển trên đá mẹ sa thạch. Đất Feralít màu vàng, vàng nhạt phát triển trên đá mẹ sa thạch sỏi sạn kết, Đất Feralít màu vàng đỏ, đỏ vàng trên phù sa cổ, nhóm đất ruộng do bồi tụ, dốc tụ thuộc khu vực Năm Mẫu. Tóm lại: Đất đai, thổ nhưỡng của khu vực Yên Tử có những đặc tính sau: Thành phần cơ giới trung bình: Tầng đất dày trung bình từ 20 – 80 cm; đất tơi xốp, dễ thoát nước, khả năng kết dính kém nên dễ bị xói mòn và rửa trôi. I.1.4 Khí hậu, thuỷ văn Khí hậu: Do vị trí địa lý địa hình Yên Tử nằm trên cánh cung Đông Triều do đó có đặc trưng sau: Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa Đông lạnh và khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, Mùa hè nóng ẩm mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10, mưa tập trung nhất là tháng 7,8. Tuy nhiên do đặc điểm riêng của vùng tiểu khí hậu mà trong mùa đông lạnh, tại Yên Tử vẫn có mưa xuân tập trung hơn so với các vùng xung quanh. Chế độ nhiệt: Nhiệt độ bình quân năm: 23,40 C, tháng cao nhất 33,40C. Tháng thấp nhất là 140C. Biên độ nhiệt thay đổi giữa ngày và đêm là 5 – 100 C. Tổng tích ôn từ 70000C – 80000 C/ năm. Thỉnh thoảng có những năm nhiệt độ thấp tới 4 – 50 C nhất là thung lũng Yên Tử với tần xuất xuất hiện không nhiều và không thành chu kỳ. Lượng mưa: Bình quân năm là 1.785 ly: Năm cao nhất là 2700 ly, Năm thấp nhất là 1423 ly. Lượng mưa tập trung vào tháng 6- 7- 8 chiếm từ 80 – 90% tổng lượng mưa hàng năm. Trong mùa khô lượng mưa nhỏ, tháng khô hanh nhất là tháng 11-12. Độ ẩm không khí xuống thấp nhất là các khu vực gần các cửa lò, làm cho cây trồng cũng như trảng cỏ cây bụi khô héo, rất dễ xảy ra nguy cơ cháy rừng. Độ ẩm không khí là 81%: Năm cao nhất là 86%; năm thấp nhất là 62%, lượng bốc hơi bình quân năm là 1.289 ly, năm cao nhất là 1360 ly, năm thấp nhất là 1120 ly. Chế độ gió: Thịnh hành nhất là gió Đông Bắc và Đông nam. Gió mùa Đông Bắc thịnh hành từ tháng 11-> Tháng 4 năm sau mang theo hơi lạnh và khô. Thuỷ văn: Trong khu vực Yên Tử có 2 hệ thống suối chính. Suối Giải Oan: Nằm trọn trong lòng 2 tiểu khu 32 và 36 đó là nguồn nước chính để phục vụ cho sản xuất Nông – Lâm nghiệp và sinh hoạt của nhân dân sinh sống trong khu vực. Những năm gần đây do rừng đã được bảo vệ và việc khai thác than lộ thiên trong khu vực này đã được giải toả thì lượng nước của Suối Giải Oan đã được điều hoà hơn. Suối Vàng Tân: Là danh giới giữa Đông Triều và Uông bí, một phần lưu vực Suối Vàng Tân là nằm ở 3 khoảnh của tiểu khu 9, trước đây chưa đưa vào dự án 327 của rừng đặc dụng Yên Tử. Hiện nay trong khu vực này vẫn có các mỏ hoạt động; rừng bị khai thác quá mức và không được bảo vệ nghiêm ngặt do vậy nước suối quanh năm bị đục ngầu và lòng suối có quá nhiều đất đá vùi lấp do rửa trôi từ trên xuống. khi có mưa to tập trung thì bị lũ rất nhanh gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất trong khu vực. I.1.5 Động, thực vật rừng Hệ thực vật gồm 4 ngành chủ yếu: Thông đất, dương xỉ, hạt trần và hạt kín thuộc 121 dòng họ và 428 loài đặc trưng cho luồng thực vật miền Bắc. Việt Nam. Có 8 loài gỗ quý hiếm như lát hoa, hoàng đàn giả, thông la hán, sến mật, táu mật, kim xanh, ba gạc, sa nhân... Cần phải được bảo vệ nghiêm ngặt. Hệ động vật ở Yên Tử rất phong phú: Tổng số loài động vật ở cạn có xương sống lên tới 206 loài, trong đó động vật có vú 40 loài, chim 120 loài, bò sát 25 loài, lương thê 21 loài. Như vậy động vật ở rừng Yên Tử rất phong phú và đa dạng. Có 20 loài thú quý hiếm cần được bảo vệ trong đó: Thú có 9 loài: Báo gấm, gấu ngựa, cầy gấm, sơn dương, tê tê, cu ly lớn, khỉ mặt đỏ, voọc bạc má, sóc bay lớn. Chim có 4 loài: Gà lôi trắng, gà tiềm, phượng hoàng đất, cao cát. Bò sát có 7 loài: Rồng đất, kỳ đà nước, trăn gấm, rắn hổ mang, rắn cạp nong, rắn ráo, tắc kè. Ngoài ra sự chia cắt của địa hình đã tạo nên cho Yên Tử những cảnh đẹp hùng vĩ, những dòng thác trắng xoá đổ từ trên núi xuống như Thác Vàng, Thác Bạc... đặc biệt nơi đây có những cây xích tùng, cây đại 700 năm tuổi và những rừng trúc xanh rì, có những vạt cây sú vẹt đã hàng trăm năm tuổi ở kkhu vực gần chùa Đồng... Với sự hấp dẫn về cảnh quan thiên nhiên, tính đa dạng của hệ động, thực vật kết hợp với những hấp dẫn về văn hóa ( bao gồm các di tích lịch sử, kiến trúc, văn hoá bản địa và tôn giáo) Yên Tử đã thu hút không những các nhà khoa học và còn thu hút hàng vạn khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và hành hương lễ hội. I.2 Điều kiện kinh tế. Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử nằm gọn trong 2 xã Phương Đông và Thượng Yên Công thuộc Thị xã Uông bí. Là 2 xã miền núi có nhiều dân tộc thiểu số cư trú: Tày, Nùng, Dao, Sán chỉ, Hoa... cùng sinh sống, do đó nền kinh tế phát triển thấp với cơ cấu khá đơn giản chủ yếu dựa vào nông nghiệp, lâm nghiệp và một số hoạt động khác. Đất canh tác chiếm khoảng 4% tổng diện tích đất đai trong hai xã, trong đó khoảng 39% diện tích là trồng lúa nước, 45% là trồng cây hoa màu. Do đó lương thực bình quân chỉ cung cấp đủ trong khoảng 7-8 tháng trong năm. Những tháng còn lại họ phải sống phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động hái lượm và bán các lâm đặc sản như: Gỗ, nấm, măng, cây thuốc, săn bắt động vật hoang dã... hoặc đãi than trôi dưới lòng suối... Những hoạt động này rất phổ biến, công khai đã làm suy thoái tài nguyên rừng Yên tử. Hiện nay do chính sách đóng cửa rừng của Nhà nước cùng với sự quy hoạch và bảo vệ chặt chẽ của Ban quản lý Yên Tử. Đời sống của người nông dân ở đây gặp rất nhiều khó khăn. Nhà nước và chính quyền địa phương cũng như Ban quản lý Yên Tử đã cố gắng tìm nhiều biện pháp giúp dân xoá đói giảm nghèo, ổn định đời sống, nâng cao thu nhập thông qua các dự án đầu tư của chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình trùng tu và bảo tồn khu di tích Yên Tử, chương trình trồng và bảo vệ rừng... đã và đang thực hiện ở hai xã. Bên cạnh việc gieo trồng một số loại cây lương thực như ngô, lúa, khoai lang, sắn và rau các loại như cà chua, xu hào, bắp cải.. thì người dân còn trồng nhiều loại cây ăn quả như: mận, đào, vải, nhãn để cung cấp cho khu du lịch Yên Tử... Việc chăn thả trâu, bò, trồng cây hương bài dứơi tán rừng mặc dù có ảnh hưởng tới hệ sinh thái của rừng như làm mất dần đi lớp phủ thực vật tầng thấp, nhưng đây là nguồn thu nhập hết sức quan trọng của nhiều hộ gia đình. Tuy nhiên theo thống kê của chính quyền thì xã Thượng Yên Công vẫn có tỷ lệ đói nghèo nhiều: Bởi vậy việc tạo điều kiện cho người dân trong khu vức tăng thêm nguồn thu nhập mới là vô cùng quan trọng và bức xúc. Điều đó không những góp phần xoá đói, giảm nghèo mà còn giảm áp lực lên tài nguyên thiên nhiên của khu du lịch Yên tử. Trong bối cảnh đó việc phát triển du lịch ở Yên Tử trong những năm gần đây có tầm quan trọng đặc biệt. Tuy nhiên vẫn còn một số hoạt động như khai thác đá phục vụ xây dựng lâm trường, xây kè, săn bắt động vật rừng làm các món ăn đặc sản đã gây ảnh hưởng tới cảnh quan của vùng. I.3 Điều kiện văn hóa – xã hội I.3.1 Văn hoá: Hiện nay tất cả các dân tộc thường sống hoà đồng với nhau trong cùng một địa bàn nên họ có rất nhiều đặc điểm hoà đồng với nhau và còn giữ lại rất ít những nét riêng của mình. Mỗi dân tộc đều có một ngôn ngữ riêng của mình song trong giao tiếp hàng ngày họ thường dùng tiếng việt, còn tiếng mẹ đẻ thường chỉ sử dụng trong gia đình. Hiện nay ở khu vực Khe Sú – xã Thượng Yên Công còn rất nhiều ngôi nhà xây dựng cách đây hàng trăm năm, cùng với những phong tục tập quán của người dân nơi đây như: Tết rằm tháng 7 của người Dao ( họ coi trọng hơn cả tết Nguyên Đán ) từ ngày 10 đến 15 tháng 7 ( âm lịch); trong đám cưới của người Dao chú rể phải tổ chức cướp cô dâu và đeo mỏ...Ngoài ra trang phục của người dân tộc cũng rất riêng, đặc trưng cho những nét văn hoá truyền thống của các dân tộc khác nhau. Đặc điểm dễ nhận thấy trên trang phục của họ là tính cầu kỳ của hoa văn được thêu trên quần áo. Hiện nay những dân tộc chỉ mặc trang phục truyền thống vào các ngày lễ trọng đại như: Tết, cưới xin, đình đám... còn ngày thường họ mặc như người kinh. I.3.2 Xã hội: Yên Tử nằm gọn trong hai xã: Thượng Yên Công và xã Phương Đông. Tổng số dân của xã Thượng Yên Công là 4.382 người, trong đó có 6 dân tộc sinh sống trên địa bàn: Dân tộc kinh có 1.910 người (43,59%), dân tộc Dao 2.283 người (52,10%), dân tộc Tày: 137 người (3,13%), dân tộc Hoa 37 người (0,84%), dân tộc Nùng: 12 người (0,27%), dân tộc sán chỉ 3 người (0,07%), xã Thượng Yên Công có 966 hộ, trong đó có 502 hộ dân tộc ít người chiếm 52%. Tỷ lệ người biết đọc biết viết khoảng 70%. Tổng số dân của xã Phương Đông là 11.624 người, trong đó có 4 dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn xã: Dân tộc kinh 10.093 (95%), dân tộc Dao 319 người (3%), dân tộc Hoa 106 người ( 1%), dân tộc Tày 106 người (1%), tỷ lệ biết đọc biết viết khoảng 89%. I.4 Tài nguyên du lịch. I.4.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên Cũng như đối với nhiều khu du lịch khác, các thắng cảnh là ưu thế nổi trội để phát triển du lịch, các thắng cảnh ở Yên Tử đã và đang được khai thác để phục vụ phát triển du lịch rất phong phú và đa dạng. Từ xa xưa, Yên Tử đã là một danh thắng nổi tiếng của đất Việt và được Nguyễn Trãi khắc hoạ thành thơ: Trên non Yên Tử chòm cao nhất Trời mới sang canh đã sáng tinh Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả Nói cười người ở giữa mây xanh Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa Bao dải tua châu đá rủ mành Di tích Nhân Tông còn lưu đấy Trùng đồng thấy giữa ánh quang vinh Yên Tử là một di sản thiên nhiên, có giá trị lớn về nhiều mặt trong đó có gía trị đa dạng sinh học, có gía trị bảo tồn lớn, có giá trị quốc gia đặc biệt về phương tiện chiến lược quân sự, khoa học và bảo tồn vẻ đẹp thiên nhiên. Những giá trị đó đã được Bộ văn hóa thông tin cấp bằng công nhận Yên Tử là khu di tích lịch sử – văn hóa – thắng cảnh đặc biệt quan trọng của quốc gia từ ngày 13/3/1974. Khách thập phương đến du lịch hành hương về cội nguồn bước đi dưới tán lá xanh của những cây Xích Tùng đại thụ và tiếng vang của núi rừng, tiếng róc rách của nước suối chảy, tiếng rào rào của thác nước đổ. Lên đến tận cùng của ngọn núi Yên Tử để ngắm tượng đá thiên tạo An Kỳ Sinh, bia Phật và thưởng thức cảnh đẹp của mây trời, gió núi, biển trời man mác. Tất cả tạo nên cảnh đẹp “ Sơn thuỷ hữu tình ”, “ Trời mây non nước hoà quyện”; là nơi để du khách ngắm cảnh, nghỉ ngơi và tận hưởng môi trường sinh thái trong lành. Ngoài ra Yên Tử còn có rừng nguyên sinh với nhiều giống loài động, thực vật quý hiếm, có những cây đại, cây xích tùng hơn 100 tuổi, có rừng trúc xanh rì, bãi sú vẹt cổ thụ ở độ cao 1.000 m. Ban quản lý Yên Tử và Ban quản lý rừng đặc dụng Yên Tử rất có ý nghĩa trong việc bảo tồn hệ sinh thái đặc biệt này. I.4.2 Tài nguyên du lịch nhân văn Trong quá trình con người bắt đầu đến định cư, sinh sống trên mỗi vùng tự nhiên ở Yên Tử với những đặc thù về xã hội và nhân văn, mỗi cộng đồng đã có nhiều hoạt động kinh tế, sinh hoạt, khai thác tài nguyên thiên nhiên và đấu tranh sinh tồn để hình thành nơi ở và nguồn sống lâu dài cho mình. Các hoạt động ấy mang giá trị nhân văn và giá trị ấy dần dần cũng lớn dần lên với thời gian và hình thành nên bản sắc văn hoá cộng đồng - đó chính là tài nguyên du lịch nhân văn của Yên Tử. Qua sử sách, khảo sát, khai quật và bằng các hiện vật thu được các nhà sử học và các chuyên gia khảo cổ khẳng định Yên Tử là nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm - Đạo Phật của Việt Nam Vị thế địa lý đã mang lại cho Yên Tử là nơi chiến lược quân sự trọng yếu và là cửa ngõ khiến cho những kẻ xâm lăng thường lợi dụng vào đất Việt. Lịch sử Việt Nam bao giờ cũng đuổi quân xâm lăng. Đại diện cho những anh hùng hào kiệt trên mảnh đất địa linh còn lưu danh trong tiến trình lịch sử này là Bà Vĩnh Huy giả trai, tập hợp binh mã đem quân về tham gia kháng chiến theo lời kêu gọi của hai Bà Trưng, chiến đấu anh dũng. Nay còn đền thờ Bà ở thôn Cổ Khân, xã Vân Hà - Đông Anh – Hà Nội. Hay hai chị em Nguyệt Thai, Nguyệt Độ đã chiến đấu và anh dũng hy sinh ởi vùng địa linh Yên Tử này. Không gian tâm linh với an dân trị quốc: Trên cửa ngõ mà giặc ngoại bang thường mượn đường xâm lược, các Vua Trần đã nhận ra rằng: Để “ Trị quốc” trước hết phải “an dân” mà an dân phải lấy dân làm gốc: “ Dụng tâm truyền tâm tạo lên sự đoàn kết”, “ lấy tâm để răn dạy hàng quan chức, cận thần”; “không tham quyền – cố vị, làm tâm sạch ” để an dân và bằng “ quang minh”, “chính đại”... lấy tâm của Đạo gắn với phúc của dân tộc và thọ của đời...và tạo lập thành “ Thiền phái Trúc Lâm” của họ Trần trên địa cảnh Yên Tử là sự kiện lịch sử rất nhân văn gắn với nhiều vùng địa linh nhân kiệt của Tỉnh Quảng Ninh. Cần khai thác được những tiềm năng sâu kín ẩn chìm trong mảnh đất, con suốt của Yên Tử, từ địa cảnh đến nhân văn để làm thức dậy trong du khách vừa là trực quan nghe, nhìn, thấy được, vừa là cảm xúc của một tâm hồn rung cảm với đất – nước – con người Yên Tử. Yên tử còn là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, rừng núi Yên Tử đã từng là căn cứ du kích Hưng – Uông ( Hưng Yên – Uông bí ). Những năm chống Mỹ cứu nước, vùng Yên Tử là nơi huấn luyện bộ đội chi viện cho chiến trường góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Mỗi đoạn đường, mỗi vùng đất, mỗi con suối Yên Tử hôm nay đều mang một giá trị tự nhiên và nhân văn ở mỗi bước đi trong tiến trình lịch sử của Thiền Phái Trúc Lâm cũng như dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Yên Tử nơi lưu giữ được hệ thống chùa, tháp, am dược Thiền phái Trúc Lâm xây dựng hầu hết tập trung trên sườn núi nhìn xuống thôn Nam Mẫu xã Thượng Yên Công sang phía Tây và phía Đông. Mỗi chùa, mỗi am có quy mô, kiểu dáng kiến trúc khác nhau, đặt ở vị trí vừa thâm u vừa ngoạn mục, mang đậm nét dấu vết văn hóa kỷ nguyên Đại Việt. Khách du lịch về Yên Tử qua hệ thống chùa, am, tháp, bước đi dưới tán lá xanh của những cây đại thụ, qua vườn tháp Huệ Quang, nhìn 97 tháp, am vây quanh Tháp Tổ để chiêm ngưỡng tượng Trần nhân Tông, một tác phẩm điêu khắc bằng đá độc đáo, kỳ diệu. Lên tới đỉnh núi Yên Tử ta chiêm ngưỡng chùa Đồng, một thành tựu của nghề đúc đồng những thế kỷ t
Tài liệu liên quan