Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, kinh doanh quốc tế ngày càng được mở rộng và giữ vai trò quan trọng. Vai trò đó ngày càng được khẳng định khi nhờ nó mà nhiều doanh nghiệp, nhiều nghành, nhiều nền kinh tế quốc gia có cơ hội phát triển.Trong nền kinh tế thị trường, việc mở rộng giao thương với các đối tác nước ngoài là việc tất yếu khách quan. Khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, điều đó càng trở nên quan trọng.
Nắm bắt xu thế đó, ngày càng có nhiều công ty thương mại hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, đồng thời thu lợi nhuận. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng ác liệt như hiện nay, để có thể tồn tại, có cơ hội mở rộng kinh doanh và phát triển, đòi hỏi các công ty kinh doanh quốc tế phải hết sức chú trọng tới mọi khâu trong chuỗi hoạt động nhằm nâng cao sức mạnh cạnh tranh. Bắt đầu từ việc tìm kiếm đối tác cung cấp nguồn nguyên vật liệu để sản xuất, tìm kiếm nhà cung cấp hàng hóa, việc marketing sản phẩm, marketing doanh nghiệp cho tới việc phân phối tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm. Tất cả các khâu đều đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại của doanh nghiệp kinh doanh.
Công ty TNHH TM & ĐT Tuấn Linh là một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế chuyên nhập khẩu tấm nhôm vật liệu và phân phối trên thị trường Hà Nội cũng như một số thị trường tại các tỉnh khác. Mặc dù đây là sản phẩm khá mới mẻ, công ty lại được coi là đi đầu trong cung ứng sản phẩm cho thị trường, nhưng cho tới nay, trong hoạt động nhập khẩu công ty Tuấn Linh còn tồn tại nhiều hạn chế và chưa thực sự đạt hiệu quả cao, chưa đúng với tiềm năng và vị thế của công ty. Xuất phát từ lý do trên, em lựa chọn đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp là: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của công ty TNHH TM & ĐT Tuấn Linh” nhằm đưa ra các giải pháp giúp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động cũng như thực trạng nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của công ty trong thời gian qua, đề tài đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn công ty nói chung.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ vủa chuyên đề là:
- Hệ thống hóa lý luận về nhập khẩu, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu cũng như sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu và thực trạng việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là vấn đề hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH Thương mại và Đầu tư Tuấn Linh.
Phạm vi nghiên cứu chính là hoạt động nhập khẩu sản phẩm tấm nhôm vật liệu của công ty 5 năm gần đây, giai đoạn 2003 – 2007.
Về kết cấu của đề tài, ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được chia làm 3 chương:
- Chương I: Lý luận chung về nhập khẩu, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
- Chương II: Thực trạng nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH Thương mại và Đầu tư Tuấn Linh trong những năm qua.
- Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH Thương mại và Đầu tư Tuấn Linh.
103 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của công ty TNHH thương mại và điện tử Tuấn Linh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TM & ĐT: Thương mại và Đầu tư
NSLĐ & LN: Năng suất lao động và Lợi nhuận
NXB: Nhà xuất bản
QTKDQT: Quản trị kinh doanh quốc tế
XD & XNK: Xây dựng và xuất nhập khẩu
LN: Lợi nhuận
NK: nhập khẩu
TSLN: Tỷ suất lợi nhuận
HQKD: Hiệu quả kinh doanh
VLĐ: Vốn lưu động
VCĐ: Vốn cố định
NNL: Nguồn nhân lực
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU, HÌNH
Trang
BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 1: Bảng tổng kết báo cáo nhân sự công ty giai đoạn 2003 – 2007 44
Bảng 2: Số lượng NK hàng năm giai đoạn 2003 – 2007 49
Bảng 3: Bảng các chỉ tiêu LN, TSLN giai đoạn 2003 – 2007 53
Bảng 4: Bảng các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn 57
Bảng 5: Bảng các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động 62
Bảng 6: Bảng các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận NK trong thời gian tới 77
HÌNH
Hình 1: cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý công ty TNHH
TM & ĐT Tuấn Linh 45
Hình 2: Số lượng NK hàng năm giai đoạn 2003 – 2007 50
Hình 3: Giá trị NK hàng năm giai đoạn 2003 – 2007 50
Hình 4: Tăng trưởng LN qua các năm 2003 – 2007 54
Hình 5: TSLN theo DT, CF qua các năm 2003 – 2007 55
Hình 6: Hiệu quả sử dụng VLĐNK qua các năm 2003 – 2007 58
Hình 7: Số vòng quay VLĐ qua các năm 2003 – 2007 59
Hình 8: Thời gian 1 vòng quay vốn lưu động 60
Hình 9: Thời hạn thu hồi vốn 61
Hình 10: Hệ số đảm nhiệm vốn 62
Hình 11: NSLĐ & LN bình quân 63
Hình 12: Mô hình phân phối sản phẩm hiện tại của công ty 81
Hình 13: Mô hình phân phối sản phẩm đề xuất với công ty 83
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, kinh doanh quốc tế ngày càng được mở rộng và giữ vai trò quan trọng. Vai trò đó ngày càng được khẳng định khi nhờ nó mà nhiều doanh nghiệp, nhiều nghành, nhiều nền kinh tế quốc gia có cơ hội phát triển.Trong nền kinh tế thị trường, việc mở rộng giao thương với các đối tác nước ngoài là việc tất yếu khách quan. Khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, điều đó càng trở nên quan trọng.
Nắm bắt xu thế đó, ngày càng có nhiều công ty thương mại hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, đồng thời thu lợi nhuận. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng ác liệt như hiện nay, để có thể tồn tại, có cơ hội mở rộng kinh doanh và phát triển, đòi hỏi các công ty kinh doanh quốc tế phải hết sức chú trọng tới mọi khâu trong chuỗi hoạt động nhằm nâng cao sức mạnh cạnh tranh. Bắt đầu từ việc tìm kiếm đối tác cung cấp nguồn nguyên vật liệu để sản xuất, tìm kiếm nhà cung cấp hàng hóa, việc marketing sản phẩm, marketing doanh nghiệp cho tới việc phân phối tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm. Tất cả các khâu đều đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại của doanh nghiệp kinh doanh.
Công ty TNHH TM & ĐT Tuấn Linh là một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế chuyên nhập khẩu tấm nhôm vật liệu và phân phối trên thị trường Hà Nội cũng như một số thị trường tại các tỉnh khác. Mặc dù đây là sản phẩm khá mới mẻ, công ty lại được coi là đi đầu trong cung ứng sản phẩm cho thị trường, nhưng cho tới nay, trong hoạt động nhập khẩu công ty Tuấn Linh còn tồn tại nhiều hạn chế và chưa thực sự đạt hiệu quả cao, chưa đúng với tiềm năng và vị thế của công ty. Xuất phát từ lý do trên, em lựa chọn đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp là: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của công ty TNHH TM & ĐT Tuấn Linh” nhằm đưa ra các giải pháp giúp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động cũng như thực trạng nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của công ty trong thời gian qua, đề tài đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn công ty nói chung.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ vủa chuyên đề là:
Hệ thống hóa lý luận về nhập khẩu, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu cũng như sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu và thực trạng việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty trong thời gian qua.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là vấn đề hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH Thương mại và Đầu tư Tuấn Linh.
Phạm vi nghiên cứu chính là hoạt động nhập khẩu sản phẩm tấm nhôm vật liệu của công ty 5 năm gần đây, giai đoạn 2003 – 2007.
Về kết cấu của đề tài, ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về nhập khẩu, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH Thương mại và Đầu tư Tuấn Linh trong những năm qua.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH Thương mại và Đầu tư Tuấn Linh.
Cuối cùng, em xin được gửi lời cám ơn tới ban giám đốc, phòng kinh doanh, phòng xuất nhập khẩu công ty TNHH TM & ĐT Tuấn Linh đã chỉ bảo, giúp đỡ em trong thời gian thực tập.Do điều kiện thời gian hạn hẹp, kiến thức còn nhiều hạn chế nên đề tài của em còn nhiều thiếu sót. Nhưng em hy vọng rằng nó có thể góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng cũng như hiệu quả kinh doanh nói chung của công ty TNHH TM & ĐT Tuấn Linh, để công ty có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Em cũng xin chân thành cảm ơn thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh Hà - người đã tận tình hướng dẫn để em hoàn thành được đề tài này.
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHẬP KHẨU, HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHẬP KHẨU
1. Khái niệm nhập khẩu
Trong thời gian gần đây, khi vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế ngày càng được khẳng định thì cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động ngoại thương. Xuất nhập khẩu hàng hóa trở thành một mảng quan trọng trong hoạt động nói chung của cả nền kinh tế. Hai hoạt động chủ yếu là xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài và nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về tiêu thụ tại thị trường trong nước trở thành các hoạt động khá phổ biến. Cùng với xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu là các yếu tố cấu thành chính cho hoạt động ngoại thương. Nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh quốc tế, vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia. Có thể nói, nhập khẩu chính là việc các công ty trong nước mua hàng hóa của các nhà sản xuất, phân phối nước ngoài về tiêu thụ tại thị trường nội địa nước mình, nhằm phục vụ những nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng hoặc tái sản xuất mà nền sản xuất trong nước không đáp ứng được hoặc đáp ứng chưa tốt nhu cầu đó. Trên cơ sở đó, tìm kiếm lợi nhuận cho mình. Hoạt động nhập khẩu thể hiện mối liên hệ phụ thuộc, sự ràng buộc của nền kinh tế một nước với nền kinh tế thế giới.
Như vậy, có thể nói rằng nhập khẩu là việc mua bán hàng hóa, dịch vụ từ các nhà sản xuất, cung ứng nước ngoài về phục vụ các nhu cầu trong nước. Điều này góp phần làm cho chủng loại hàng hóa trên thị trường nội địa trở nên phong phú và đa dạng, người tiêu dùng có cơ hội lựa chọn nhiều loại hàng hóa hơn cho nhu cầu của mình.
2. Đặc điểm cơ bản và vai trò của hoạt động nhập khẩu
2.1 Đặc điểm cơ bản của hoạt động nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh quốc tế, nó mang những đặc trưng rất riêng so với kinh doanh nội địa. Những đặc điểm riêng này có tác động và ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Các đặc điểm có thể kể đến như:
Về thị trường, các nhà nhập khẩu hoàn toàn có thể lựa chọn được cho mình nhà cung cấp nước ngoài một cách hợp lý nhất. Bất cứ quốc gia nào có thể cung cấp sản phẩm, hàng hóa đều có thể trở thành thị trường cho các nhà nhập khẩu hàng hóa. Mỗi quốc gia đều có những lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối khác nhau, họ hoàn toàn có thể sản xuất những hàng hóa họ có lợi thế nhất, từ đó cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh nhất. Các nhà nhập khẩu có nhiều cơ hội lựa chọn thị trường nhập khẩu cho mình. Trong một thị trường rộng lớn, phong phú và đa dạng như vậy, để chọn được thị trường hiệu quả và hợp lý, các nhà nhập khẩu phải phân tích, so sánh để có được lựa chọn đúng đắn nhất. Trong hoạt động kinh doanh, mục tiêu lợi nhuận luôn được chú trọng. Để đạt được mục tiêu đó, các nhà nhập khẩu cần cân nhắc tới những lợi ích đạt được cũng như các chi phí bỏ ra khi kinh doanh trên một thị trường nhất định. Các yếu tố liên quan thị trường thường được các nhà nhập khẩu xem xét bao gồm: hàng hóa thị trường cung ứng, chất lượng hàng hóa đó, nhu cầu thị trường với hàng hóa đó, chi phí vận chuyển, các quy định pháp luật…
Về cách thức thanh toán, nhập khẩu cũng như hoạt động ngoại thương, có rất nhiều phương thức thanh toán như: chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ… với nhiều công cụ thanh toán như: tiền mặt, séc, hối phiếu, kỳ phiếu… Trong thanh toán nhập khẩu, các bên thường quy định điều khoản thanh toán rất cụ thể, tỷ mỉ. Các loại ngoại tệ mạnh thường được sử dụng, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nhà nhập khẩu phải chịu rủi ro rất lớn khi tỷ giá hối đoái biến động lớn. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của mình không bị ảnh hưởng, đạt kết quả cao, yêu cầu đối với các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu phải rất chú ý tới điều khoản thanh toán. Các yếu tố như: hình thức thanh toán, thời hạn thanh toán, đồng tiền sử dụng để thanh toán, tỷ giá hối đoái… là các yếu tố buộc các doanh nghiệp phải rất chú trọng.
Về hệ thống pháp lý, hoạt động nhập khẩu chịu sự chi phối của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Do chủ thể của hoạt động nhập khẩu đến từ các quốc gia khác nhau, nên hoạt động nhập khẩu chịu sự chi phối của luật nước người mua, luật nước người bán, luật quốc tế, các tập quán thương mại… Các nguồn luật này nhiều khi có sụ xung đột, mâu thuẫn nhau. Điều này thường mang lại nhiều rủi ro cho các bên. Yêu cầu đặt ra là mỗi doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu phải lưu ý và nắm rõ điều này để lựa chọn được nguồn luật điều chỉnh hợp đồng, tránh được các phát sinh không cần thiết.
Xuất phát từ đặc điểm hoạt động vượt ra khỏi biên giới quốc gia mà hoạt động nhập khẩu mang những đặc điểm riêng nêu trên. Những đặc điểm này một mặt mang lại cho các bên tham gia hoạt động nhập khẩu cả những cơ hội lớn cũng như các rủi ro đáng kể.
2.2 Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Trước hết, nhập khẩu giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chính phủ các quốc gia có thể kiểm soát, điều chỉnh cơ cấu kinh tế thông qua các chính sách nhập khẩu. Đối với các nghành cần khuyến khích phát triển, chính phủ có thể áp dụng các biện pháp, chính sách nhập khẩu nhiều ưu đãi với những mặt hàng phục vụ nghành đó. Đồng thời với những sản phẩm cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm nghành đó sản xuất ra, chính phủ có thể áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu, các biện pháp bảo hộ. Mặt khác, với những quốc gia đang hoặc kém phát triển, họ ít có điều kiện nghiên cứu phát triển và triển khai công nghệ mới, hiện đại. Thông qua hoạt động nhập khẩu, họ có thể có được những công nghệ mới, hiện đại, phục vụ nền sản xuất trong nước, làm gia tăng năng suất cũng như khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế quốc gia đó. Đồng thời cũng có thể đáp ứng được nhu cầu cho thị trường trong nước, qua đó làm giảm sự lệ thuộc vào các nước khác.
Thứ hai, nhập khẩu góp phần làm nền kinh tế quốc gia phát triển ổn định, cân đối. Mỗi quốc gia, dù giàu có và phát triển đến đâu cũng không thể tự sản xuất và đáp ứng tất cả các nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng và phong phú của mình. Như đã nói, mỗi đất nước có một lợi thế so sánh riêng. Để đạt hiệu quả cao nhất, họ chỉ tập trung vào sản xuất những mặt hàng họ có lợi thế đó, mang những sản phẩm đó đi trao đổi để đáp ứng các nhu cầu khác nữa. Hoạt động nhập khẩu là một mặt của sự trao đổi đó. Nó giúp cho các nền kinh tế có được sự cân đối giữa các chủng loại sản phẩm họ có thể sản xuất và không thể sản xuất nhằm đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của người dân. Nhập khẩu giúp bổ sung một cách hợp lý những thiếu hụt của nền kinh tế quốc gia. Với vai trò này, nhập khẩu thực sự trở thành một hoạt động không thể thiếu với nền kinh tế các quốc gia. Nó đảm bảo cho các quốc gia có thể phát triển một cách cân đối, ổn định, vững bền.
Thứ ba, nhập khẩu giúp cải thiện và nâng cao chất lượng sống của người dân. Trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay, nhu cầu người tiêu dùng ngày càng lớn, đa dạng và phong phú. Những sản phẩm sản xuất trong nước nhiều khi không thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân. Nhập khẩu giúp bổ sung đáp ứng các nhu cầu cao đó. Mặt khác, nhập khẩu làm cho chủng loại hàng hóa trở nên phong phú, đa dạng hơn. Cùng một chi phí, để đáp ứng cùng một nhu cầu, người tiêu dùng có thể lựa chọn hàng hóa có xuất sứ từ nhiều quốc gia khác nhau. Bên cạnh đó, hoạt động nhập khẩu còn đảm bảo cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất khi nguồn nguyên vật liệu trong nước khan hiếm không đáp ứng đủ nhu cầu. Trên cơ sở đó, nhiều hoạt động sản xuất được duy trì và mở rộng, tạo điều kiện tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho nền kinh tế nói chung.
Thứ tư, nhờ nhập khẩu, chất lượng sản xuất nền kinh tế quốc gia được cải thiện. Khi các sản phẩm nhập khẩu được đưa vào tiêu thụ trên thị trường nội địa, các sản phẩm sản xuất trong nước có thể vì thế mà mất thị trường. Để cạnh tranh, yêu cầu đặt ra với các nhà sản xuất trong nước là phải tìm cách để nâng cao chất lượng sản phẩm, cắt giảm chi phí. Chính áp lực cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu đã buộc các công ty nội địa cải tiến quy trình, công nghệ, cung cách làm việc của mình để sản xuất được những sản phẩm có thể cạnh tranh. Điều này góp phần làm thay đổi năng lực sản xuất của các công ty, của một nghành, từ đó làm thay đổi năng lực sản xuất của cả nền kinh tế.
Thứ năm, nhập khẩu có tác động tích cực, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Hoạt động nhập khẩu một mặt đảm bảo các yếu tố đầu vào sản xuất cho một số nghành, một mặt làm thay đổi công nghệ, quy trình sản xuất. Điều đó cho phép chúng ta sản xuất ra được những sản phẩm đảm bảo chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật của họ, là bước khởi đầu cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài. Ngoài ra, trong nhiều chương trình hợp tác giữa các chính phủ, các tổ chức nhà nước, khi chúng ta chấp nhận nhập khẩu hàng hóa của họ, họ cũng sẽ chấp nhận nhập khẩu hàng hóa khác của ta. Khi đó, hoạt động nhập khẩu cũng đã góp phần thúc đẩy và tác động tích cực tới hoạt động xuất khẩu.
3. Các hình thức nhập khẩu
Trong ngoại thương, các phương thức giao dịch mua bán hàng hóa khá phong phú và đa dạng. Cùng với đó, hoạt động nhập khẩu cũng có khá nhiều hình thức. Khi tham gia kinh doanh nhập khẩu, tùy thuộc vào năng lực tài chính của doanh nghiệp, vào chủng loại và đặc tính hàng hóa, vào quan hệ giữa các bên mà nhà nhập khẩu có thể lựa chọn cho mình các hình thức nhập khẩu phù hợp và đạt hiệu quả. Hiện nay, các hình thức nhập khẩu có thể kể đến bao gồm: nhập khẩu trực tiếp, nhập khẩu ủy thác,nhập khẩu hàng đổi hàng, nhập khẩu gia công, nhập khẩu liên doanh.
Nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu mà hai bên mua và bán trực tiếp giao dịch với nhau, hàng hóa được nhà nhập khẩu mua trực tiếp từ nhà sản xuất, cung ứng nước ngoài mà không qua trung gian. Theo đó, bên xuất khẩu trực tiếp giao hàng cho bên nhập khẩu. Nhà nhập khẩu sẽ tự bỏ vốn để kinh doanh nhập khẩu, tự thực hiện các công việc như tìm đối tác, đàm phán, ký kết hợp đồng, tự tổ chức kinh doanh hàng nhập khẩu, tự chịu chi phí cho giao dịch, nghiên cứu thị trường, giao nhận, lưu kho… Theo hình thức này, các doanh nghiệp nhập khẩu phải chịu trách nhiệm với các hoạt động của mình. Nhập khẩu trực tiếp chứa đựng độ rủi ro cao hơn các hình thức nhập khẩu khác nhưng mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho các nhà nhập khẩu.
Nhập khẩu ủy thác hay còn gọi là nhập khẩu qua trung gian, là hình thức nhập khẩu qua trung gian thương mại. Theo hình thức này, bên nhập khẩu sẽ ủy thác cho một trung gian thương mại, trung gian này sẽ liên hệ với nhà xuất khẩu, thực hiện các nghiệp vụ nhập khẩu hàng hóa thông thường để nhập hàng về theo hợp đồng ủy thác với nhà nhập khẩu thực sự. Khi hoàn thành hợp đồng, nhà nhập khẩu sẽ phải trả cho trung gian một khoản tiền gọi là phí ủy thác. Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nhận ủy thác sẽ không phải bỏ vốn, không phải xin hạn nghạch, không cần quan tâm tới thị trường tiêu thụ hàng hóa nhập về đó mà chỉ hoạt động theo ý nghĩa đại diện cho bên đã ủy thác cho mình tiến hành các giao dịch với nhà xuất khẩu như: đàm phán, ký hợp đồng, thông quan hàng nhập, giải quyết khiếu nại, đòi bồi thường khi có tổn thất… Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu ủy thác không phải bỏ vốn, rủi ro thấp nhưng lợi nhuận không cao. Doanh thu chủ yếu là phí ủy thác nhận được từ nhà nhập khẩu chính thức.
Nhập khẩu hàng đổi hàng là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu. Thanh toán cho hoạt động này không dùng tiền mà dùng hàng hóa. Hình thức nhập khẩu này thực chất là sự thực hiện hai nghiệp vụ khác nhau: xuất và nhập khẩu. Theo hình thức này, khi doanh nghiệp nhập khẩu một lượng hàng hóa của đối tác nước ngoài, đi kèm với việc xuất khấu cho họ một lượng hàng hóa khác tương ứng với giá trị, tính chất lô hàng đã nhập. Theo hình thức này, các bên tham gia hợp đồng vừa là người nhập khẩu, vừa là người xuất khẩu. Họ có thể tìm kiếm được lợi nhuận từ việc kinh doanh hàng nhập khẩu, đồng thời lại tiêu thụ được hàng hóa khác của mình.
Nhập khẩu gia công là hình thức nhập khẩu mà bên nhập khẩu cũng là bên nhận gia công thực hiện nhập khẩu nguyên vật liệu hay bán thành phẩm từ bên đặt gia công để tiến hành gia công hàng hóa theo hợp đồng gia công.
Nhập khẩu liên doanh là hình thức nhập khẩu trên cơ sở một liên kết kinh tế. Liên kết này được hình thành một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp, trong đó có ít nhất một doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp. Liên kết kinh tế này cùng phối hợp các kỹ năng để giao dịch, đưa ra biện pháp, chính sách, đường lối để hoạt động nhập khẩu có lợi nhất cho tất cả các bên tham gia liên kết. Hình thức này chứa đựng ít rủi ro hơn so với hình thức nhập khẩu trực tiếp, vì có sự chia sẻ nghĩa vụ cho các bên tham gia liên kết, nhưng đồng thời mức lợi nhuận cũng thấp hơn do có sự chia sẻ lợi ích.
II. HQKD NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1. Khái niệm HQKD, HQKD nhập khẩu của doanh nghiệp
1.1 Khái niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Tham gia vào hoạt động kinh tế, nói chung bất cứ đơn vị nào cũng hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng các doanh nghiệp theo đuổi. Với một đồng vốn bỏ vào kinh doanh, ai cũng muốn nó mang lại nhiều đồng lợi nhuận nhất. Muốn đạt được điều đó, các doanh nghiệp không ngừng đầu tư cho nghiên cứu thị trường, thay đổi quy trình, công nghệ, cải tiến sản phẩm, cắt giảm chi phí sản xuất, cũng như các chi phí liên quan… Tất cả những điều đó, nói một cách khác là sự sắp xếp, hợp lý hóa quá trình sản xuất kinh doanh. “Hiệu quả kinh doanh” là một thuật ngữ để đánh giá, xem xét mứ độ hợp lý hóa quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Dưới nhiều góc độ khác nhau, có rất nhiều quan điểm, ý kiến về thuật ngữ “hiệu quả kinh doanh” này. Có thể kể đến một số quan điểm sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là kết quả đạt được trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa” Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, PGS.TS Nguyễn Thị Hường tập 2, trang 318.
. Quan điểm đã thể hiện được mối liên hệ giữa doanh thu và hiệu quả kinh doanh. Theo quan điểm này, hiệu quả kinh doanh là như nhau nếu các hoạt động kinh doanh cùng mang lại một mức doanh thu. Có thể thấy, trên thực tế để mang lại cùng một mức doanh thu nhưng doanh nghiệp phải có sự đầu tư khác nhau cho các hoạt động khác nhau. Mức đầu tư đó chính là chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được doanh thu. Chưa phản ánh được điều này chính là hạn chế của quan điểm trên về hiệu quả kinh doanh.
Quan điểm thứ hai cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm