Phát triển nguồn nhân lực một trong những vấn đề thời sự được quan tâm hàng đầu trong các quyết sách phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia nhằm đảm bảo sư phát triển bền vững. Nguồn nhân lực có việc làm, thu nhập ổn định không chỉ mang lại cho họ cuộc sống ấm no mà còn góp phần tạo điều kiện để phát triển kinh tế xã hội của đất nước
Hội nhập kinh tế thế giới là xu hướng tất yếu của thời đại, Việt Nam là quốc gia không nằm ngoài quy luật đó. Nước ta hiện đang thực hiện trong quá trình CNH, HĐH đất nước, bên cạn sử dụng nguồn nhân lực nội sinh, cần phải biết sử dụng những thành tựu của khoa học công nghệ, bắt kịp tri thức mới để phát triển nhanh nền kinh tế. Vì vậy, vấn đề cần đặt ra hiện nay cho Việt Nam là phát triển nguồn nhân lực có trí thức, trình độ, tay nghề cho sự phát triển kinh tế. Đây cũng được xem là giải pháp tốt nhất để đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH, nhanh chóng đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản là nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Huyện Đăk Mil bước vào giai đoạn đẩy nhanh phát triển kinh tế xã hội với mục tiêu vào năm 2014 trở thành Thị Xã thứ hai của tỉnh Đăk Nông, để làm đuợc điều đó cả người người dân của huyện Đăk Mil không những đầu tư phất triển về mặt kinh tế xã hội của huyện mà còn đầu tư phát triển và khai thác tốt về chất luợng nguồn nhân lực, đặc. Tuy nhiên, hiện nay huyện vẫn chưa khai thác hết các tiềm năng và những lợi thế nguồn nhân lực trên địa bàn huyện, về việc phát triển nguồn nhân lực của toàn huyện vẫn chưa cân đối đặc biệt là các xã thuộc chương trình 135 có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn không cao. Do đó, chưa tạo được động lực phát triển kinh tế xã hội của các xã thuộc chương trình 135 nói riêng và việc phát triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững, trong quá trình CNH,HĐH trên địa bàn của huyện nói chung.
Chính sức lôi cuốn thực tiễn ấy, tôi nhận thấy đây là vấn đề cấp bách, mang tính chiến lược, quyết định đến việc phát triển nguồn nhân lực của các xã 135 của huyện nói riêng và nguồn nhân lực cả huyện nói chung nên tôi đã chọn đề tài “Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho các xã thuộc chương trình 135 tại huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
61 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho các xã thuộc chương trình 135 tại huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Phát triển nguồn nhân lực một trong những vấn đề thời sự được quan tâm hàng đầu trong các quyết sách phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia nhằm đảm bảo sư phát triển bền vững. Nguồn nhân lực có việc làm, thu nhập ổn định không chỉ mang lại cho họ cuộc sống ấm no mà còn góp phần tạo điều kiện để phát triển kinh tế xã hội của đất nước
Hội nhập kinh tế thế giới là xu hướng tất yếu của thời đại, Việt Nam là quốc gia không nằm ngoài quy luật đó. Nước ta hiện đang thực hiện trong quá trình CNH, HĐH đất nước, bên cạn sử dụng nguồn nhân lực nội sinh, cần phải biết sử dụng những thành tựu của khoa học công nghệ, bắt kịp tri thức mới để phát triển nhanh nền kinh tế. Vì vậy, vấn đề cần đặt ra hiện nay cho Việt Nam là phát triển nguồn nhân lực có trí thức, trình độ, tay nghề cho sự phát triển kinh tế. Đây cũng được xem là giải pháp tốt nhất để đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH, nhanh chóng đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản là nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Huyện Đăk Mil bước vào giai đoạn đẩy nhanh phát triển kinh tế xã hội với mục tiêu vào năm 2014 trở thành Thị Xã thứ hai của tỉnh Đăk Nông, để làm đuợc điều đó cả người người dân của huyện Đăk Mil không những đầu tư phất triển về mặt kinh tế xã hội của huyện mà còn đầu tư phát triển và khai thác tốt về chất luợng nguồn nhân lực, đặc. Tuy nhiên, hiện nay huyện vẫn chưa khai thác hết các tiềm năng và những lợi thế nguồn nhân lực trên địa bàn huyện, về việc phát triển nguồn nhân lực của toàn huyện vẫn chưa cân đối đặc biệt là các xã thuộc chương trình 135 có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn không cao. Do đó, chưa tạo được động lực phát triển kinh tế xã hội của các xã thuộc chương trình 135 nói riêng và việc phát triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững, trong quá trình CNH,HĐH trên địa bàn của huyện nói chung.
Chính sức lôi cuốn thực tiễn ấy, tôi nhận thấy đây là vấn đề cấp bách, mang tính chiến lược, quyết định đến việc phát triển nguồn nhân lực của các xã 135 của huyện nói riêng và nguồn nhân lực cả huyện nói chung nên tôi đã chọn đề tài “Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho các xã thuộc chương trình 135 tại huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH
- Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực phục vụ quá trình CNH, HĐH tại các xã thuộc chương trình 135 của huyện Đăk Mil
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực tại các xã thuộc chương trình 135 của huyện Đăk Mil trong quá trình CNH, HĐH
3. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp điều tra chọn mẫu
* Phương pháp nghiên cứu tài liệu
* Phương pháp thống kê mô tả
* Phương pháp chuyên gia chuyên khảo
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu : Nghiên cứu điều tra cán bộ trong cơ quan của xã như; Chủ tịch, bí thư( bí thư xã, bí thư chi bộ, bí thư đoàn), công an xã, truởng thôn bon…
- Phạm vi nghiên cứu:
* Về mặt không gian: Nghiên cứu 03 xã thuộc chương trình 135 của huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông đó là: Xã Đăk Gằn, xã Đăk N’Rót và xã Long Sơn
* Về mặt thời gian: Thực trạng về nguồn nhân lực của xã 135 trong năm 2011
* Về mặt nội dung: Thực trạng và các giải pháp phát triển nguồn nhân lực tại các xã 135 của huyện Đăk Mil nhằm đáp ứng các yêu cầu CNH, HĐH
5. Đóng góp của đề tài
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn lực và phát triển nguồn nhân lực
- Là cơ sở để huyện Đăk Mil và các ban ngành có liên quan tham khảo trong việc hoạch định, bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực ở các xã thuộc chương trình 135 trong quá trình CNH, HĐH ở huyện Đăk Mil
- Làm tài liệu tham khảo cho các học sinh, sinh viên và các cá nhân quan tâm tới lĩnh vực này
6. Kết cấu đề tài
Đề tài gồm 3 phần
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH
Chương 2: Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội huyện Đăk Mil
Chương 3: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực của các xã thuộc chương trình 135 tại huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông
Chương 4: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho các xã thuộc chương trình 135 của huyện Đăk Mil tỉnh Đăk Mil
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
PHẦN II
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CNH, HĐH
1.1. Khái niệm và phân loại nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực hay nguồn lực con người.
- Theo từ điển của Pháp (1917-1985), nguồn nhân lực xã hội bao gồm những người trong độ tuổi lao động và mong muốn có việc làm. Như vậy, theo quan điểm này thì những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng không muốn có việc làm thì không được xếp vào nguồn nhân lực xã hội
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Con người là một khái niệm phức hợp, có quan niệm biện chứng với các nhân tố tự nhiên và xã hội”
Ở nước ta cũng có nhiều khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực:
- Trong giáo trình “Quản lý con người” của học viện hành chính quốc gia, nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của quốc gia. Như vậy, nguồn nhân lực có thể được xác định trên phạm vi một địa phương, một ngành hay một vùng[4]
- Theo tổng cục thống kê Việt Nam, nguồn nhân lực xã hội bao gồm những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, có tính thêm cả lao động trẻ em và lao động cao tuổi
Sở dĩ có nhiều khái niệm về nguồn nhân lực là do có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nguồn nhân lực
Thứ nhất, coi nguồn nhân lực là nhân tố cơ bản để phát triển kinh tế xã hội, một đất nước phát triển thực sự dân giàu nước mạnh thì trước hết phải phát triển các ngành y tế, giáo dục, đào tạo và dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng dân số từ đó mà nâng cao chất lượng nguồn nhân lực – nhân tố con người trong quá trình phát triển
Thứ hai, coi nguồn nhân lực là yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất nên khi nghiên cứu chỉ chú ý từ yếu tố phát triển nguồn nhân lực là đào tạo kỹ năng lao động và vấn đề giải quyết việc làm
Do vậy, có thể đưa ra khái niệm chung về nguồn nhân lực như sau: “ Nguồn nhân lực của một quốc gia (vùng lãnh thổ) là toàn bộ tiềm năng lao động của con người có được trong một thời kỳ nhất định phù hợp với kế hoạch và chiến lược phát triển đất nước. Tiềm năng hay lượng lao động là tổng hợp các yếu tố thể lực, trí tuệ và tâm lực của nguồn lao động của một quốc gia (vùng lãnh thổ) đáp ứng được đòi hỏi về cơ cấu lao động phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội”[11.4]
1.1.2. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực.
UNESCO quan niệm rằng: phát triển nguồn nhân lực là làm cho sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực bao hàm phạm vi rộng hơn. Nó không chỉ là trình độ lành nghề hay rộng hơn là đào tạo, mà còn là phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện không chỉ nhờ quá trình đào tạo, bồi dưỡng mà còn cả sự tích lũy kinh nghiệm trong cuộc sống và quá trình làm việc của người lao động
Có thể hiểu một cách chung nhất: “ Phát triển nguồn nhân lực là phát triển nhân tố con người, gia tăng toàn diện giá trị con người trên các mặt trí tuệ, đạo đức, thể lực, năng lực lao động sáng tạo, đồng thời phân bố, sử dụng, phát huy có hiệu quả nhất năng lực sáng tạo của con người để phát triển đất nước”.
* Quan niệm của Đảng và Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực
Trên cơ sở kế thừa và phát triển có chọn lọc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời kết hợp với việc tham khảo kinh nghiệm của các nước phát triển đi trước, qua nhiều kỳ Đại Hội, Đảng ta khẳng định vai trò quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế. Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Nguồn nhân lực lớn nhất, quý nhất của chúng ta là nguồn nhân lực con người”. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định “… nguồn lực con người - yếu tố cơ bản về phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [2.108],… con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH…” [2,201]. Đại hội X của Đảng lại tiếp tục khẳng định “Tăng cường phát huy nội lực bằng cách phát triển nguồn nhân lực chủ yếu cho giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế”.
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng chiến lựơc phát triển nguồn lực, chiến lược phát triển con người, xem con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc CNH, HĐH, khẳng định con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về trí lực, khả năng lao động năng lực sáng tạo và tính tích cực chính trị - xã hội, cả về đạo đức, tâm hồn và tình cảm chính là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp CNH, HĐH… mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm quản triệt tư trưởng chăm lo bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam
1.1.3. Phân loại nguồn nhân lực.
* Theo nhiều tài liệu nghiên cứu về nguồn nhân lực ở nước ta chia thành 3 loại chính như sau:
- Nguồn nhân lực có sẵn trong dân cư: Bao gồm toàn bộ những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, khái niệm này gọi là dân cư hoạt động, có nghĩa là tất cả những người có khả năng làm việc trong dân cư tính theo độ tuổi lao động quy định.
Độ tuổi lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể tâm lý - sinh lý xã hội mà con người tham gia vào quá trình lao động. Gíơi hạn độ tuổi lao động được quy định tùy thuộc vào điều kiện KT - XH của từng nước và trong từng thời kỳ.
* Ở Việt Nam, giới hạn độ tuổi như sau:
+ Giới hạn dưới: Quy định số tuổi thanh niên bước vào độ tuổi lao động là 15 tuổi
+ Giới hạn trên: Quy định tuổi về hưu, ở nước ta quy định tuổi về hưu 55 đối với nữ và 60 đối với nam
- Nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế). Đây là những người có công ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế văn hóa và xã hội.
- Nguồn nhân lực dự trữ: Nguồn nhân lực dự trữ của nền kinh tế bao gồm những người trong độ tuổi lao động, nhưng vì lý do khác nhau họ không có công việc ổn định ngoài xã hội. Số người này đóng vai trò của một nguồn dự trữ về nguồn nhân lực bao gồm:
+ Những người làm công việc nội trợ gia đình: Đây là nguồn nhân lực đáng kể và đại bộ phận là phụ nữ. Khi điều kiện KT-XH và công việc gia đình thuận lợi thì họ sẵn sàng tham gia vào lực lượng lao động của xã hội
+ Những người đã tốt nghiệp phổ thông và trường chuyên nghiệp được coi là nguồn nhân lực quan trọng và có chất lượng. Đây là nguồn nhân lực ở độ tuổi thanh niên, có sức khỏe, có trình độ, nhanh nhạy, dễ tiếp thu cái mới
+ Nguồn nhân lực đã đến tuổi lao động, chưa học hết THPT, không tiếp tục học nữa muốn tìm việc làm
+ Nguồn nhân lực ở độ tuổi lao động đã tốt nghiệp ở các trường chuyên nghiệp (Trung cấp, cao đẳng, đại học) thuộc các chuyên môn khác nhau đang tìm việc làm
+ Những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự cũng thuộc nguồn nhân lực dự trữ, có khả nang tham gia vào hoạt động kinh tế
+ Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp muốn tìm việc làm, cũng là nguồn nhân lực dự trữ, sẵn sàng tham gia vào hoạt động kinh tế
1.2. Chương trình 135 và các giai đoạn hình thành
1.2.1. Chương trình 135
Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (hay đọc là: "chương trình một-ba-năm"), là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998. Chương trình được biết đến rộng rãi dưới tên gọi Chương trình 135 do Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt thực hiện chương trình này có số hiệu văn bản là 135/1998/QĐ-TTg. Theo kế hoạch ban đầu, chương trình sẽ kéo dài 7 năm và chia làm hai giai đoạn; giai đoạn 1 từ năm 1998 đến năm 2000 và giai đoạn 2 từ năm 2001 đến năm 2005. Tuy nhiên, đến năm 2006, Nhà nước Việt Nam quyết định kéo dài chương trình này thêm 5 năm, và gọi giai đoạn 1997-2006 là giai đoạn I. Tiếp theo là giai đoạn II (2006-2010).
1.2.2 Các giai đoạn hình thành chương trình 135
1.2.2.1 Giai đoạn I (1997-2006)
Điều hành Chương trình 135 là Ban chỉ đạo chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Người đứng đầu ban này là một phó thủ tướng chính phủ; phó ban là Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; và các thành viên là một số thứ trưởng các bộ ngành và các đại diện đoàn thể xã hội.
- Mục tiêu cụ thể của Chương trình 135 là:
* Phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số;
* Phát triển cơ sở hạ tầng;
* Phát triển các dịch vụ công cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế, nước sạch
* Nâng cao đời sống văn hóa. Có nhiều biện pháp thực hiện chương trình này, bao gồm đầu tư ồ ạt của nhà nước, các dự án nhà nước và nhân dân cùng làm (nhà nước và nhân dân cùng chịu kinh phí, cùng thi công), miễn giảm thuế, cung cấp miễn phí sách giáo khoa, một số báo chí, v.v...
1.2.2.2 Giai đoạn II (2006-2010)
Chính phủ Việt Nam đã xác định có 1.946 xã và 3.149 thôn, buôn, làng, bản, xóm ấp đặc biệt khó khăn thuộc các xã khu vực II thuộc 45 tỉnh, thành được đưa vào phạm vi của Chương trình 135.
Mục tiêu tổng quát
Tạo chuyển biến nhanh về sản xuất thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường.Cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong nước. Đến năm 2010: Trên địa bàn không có hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30%.
Nội dung chính chương trình
Nhà nghèo trước khi chưa có chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản suất của đồng bào các dân tộc đào tạo cán bộ khuyến nông thôn bản. Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, xây dựng các mô hình sản xuất có hiệu quả, phát triển công nghiệp chế biến bảo quản. Phát triển sản xuất: Kinh tế rừng, cây trồng có năng suất cao, chăn nuôi gia súc, gia cầm có giá trị. Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Làm đường dân sinh từ thôn, bản đến trung tâm xã phù hợp với khả năng nguồn vốn, công khai định mức hỗ trợ nhà nước. Xây dựng kiên cố hóa công trình thủy lợi: Đập, kênh, mương cấp 1 - 2, trạm bơm, phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp và kết hợp cấp nước sinh hoạt. Làm hệ thống điện hạ thế đến thôn, bản; nơi ở chưa có điện lưới làm các dạng năng lượng khác nếu điều kiện cho phép. Xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho cộng đồng. Xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng thôn, bản (tùy theo phong tục tập quán) ở nơi cấp thiết…
1.2.3 Vai trò phát triển nguồn nhân lực trong tiến trình CNH, HĐH hiện nay.
CNXH có được sử dụng thành công hay không, thì phải tùy thuộc vào việc đã phát huy tốt nguồn lực hay chưa? Khi bước vào xây dựng CNXH Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn xây dựng CNXH trước hết cần có con người”. [17]
- Thứ nhất: Vai trò nguồn nhân lực trong lĩnh vực kinh tế
Trong bất cứ một xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. Ngày nay, khi KH-KT phát triển hàm lượng chất xám trong giá trị hàng hóa ngày càng cao thì vai trò của nguồn lao động trí tuệ lại càng quan trọng trong lực lượng. Lê nin chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là người lao động” [17]. Trong quá trình xây dựng CNXH, người lao động đã trở thành những người làm chủ đất nước, làm chủ cả quá trình tổ chức quản lý sản xuất, xây dựng kế hoạch và phân phối sản phẩm. Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển bình vững
- Thứ hai: Vai trò nguồn nhân lực trong lĩnh vực chính trị
Xét nguồn nhân lực trên lĩnh vực chính trị khi mọi người có năng lực, thấy được trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn người có đạo đức, có tài vào cơ quan nhà nước sẽ góp phần xây dựng nhà nước vững mạnh. Nói về vai trò của quần chúng tham gia vào công việc nhà nước, Hồ Chí Minh đã viết: “ Khi người dân biết hưởng quyền dân chủ của mình dám nói, dám làm thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ” [17]. Có thể khẳng định nguồn lực con người là yếu tố quan trong trong việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong quá trình đấu tranh bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù.
- Thứ ba: Vai trò nguồn nhân lực trong lĩnh vực xã hội
Con người không chỉ là chủ thể của hoạch động sản xuất vật chất mà còn là chủ thể của quá trình sản xuất tinh thần trong xã hội. Nguồn lực con người xét về mỗi cá nhân còn là yếu tố cấu thành con người có thể khai thác. Sự phối hợp giữa các thành viên trong cộng đồng cũng tạo ra sức mạnh to lớn trong việc phát huy nguồn lực con người để nhận thức, cải tạo tự nhiên, xã hội. Những hiệu quả của việc phát huy đó lại tùy thuộc vào chế độ xã hội, cách thức tổ chức xã hội.
- Thứ tư: Vai trò của nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa
Dưới chế độ CNXH nhân dân lao động được làm chủ trong đời sống văn hóa xã hội. Góp phần xây dựng nên những công trình văn hóa, những sáng tạo ra nghệ thuật to lớn.Con người có văn hóa là những con người có nghĩa vụ bảo tồn những di sản văn hóa tinh thần của đất nước và của nhân loại
Con người có tri thức khoa học, có năng lực nghiên cứu tạo ra những khả năng cho họ có những đóng góp xứng đáng trong sự nghiệp phát triển khoa học của đất nước
Nguồn lực con người không biết khai thác, phát huy thì thật là lãng phí. Trong khi đó nước ta đang là nước nghèo, kinh tế kém phát triển, thì việc phát huy nguồn lực con người để xây dựng đất nước thì càng trở nên quan trọng.
1.3 Vai trò phát triển nguồn nhân lực trong các xã thuộc chương trình 135
Nói đến nguồn nhân lực là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, đó không phải là chủ thể biệt lập, riêng lẽ mà là những chủ thể đuợc tổ chức về lực luợng, thống nhất về tư tưởng và hành động. Nói một cách cụ thể hơn, nguồn nhân lực với tư cách là động lực của sự phát triển chính là tổng hợp của những chủ thể với những phẩm chất nhất định tham gia vào quá trình chung của xã hội. Cần hiểu rằng “tổng hợp những chủ thể” này không phải là tập hợp số lượng người, mà nó là tổng hợp sức mạnh của chỉnh thể của những ngươi hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết từ những phẩm chất bên trong của mỗi chủ thể và nó đuợc nhân lên gấp bội trong hoạt động thực tiễn. Vậy, đối với các xã thuộc chương trình 135 thì vai trò nguồn nhân lực có chất luợng còn có ý nghĩa gấp bội, nó thúc đẩy cho quá trình vận động phát triển.
Các xã 135 còn nhiều khó khăn về điều kiện KT-XH cũng như về mặt nhân tố con người, trên địa bàn các xã 135 sinh sống chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, đời sống vật chất của người dân còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí của người dân thấp, chính vì đời sống kinh tế của các hộ dân còn thấp mà trong thời gian qua có nhiều ngườii dân trên các địa bàn này đã nghe lời xúi dục của kẻ thù đi vựơt biên sang bên nước bạn Campuchia nó gây mất ổn định về an ninh của đất nước. Do đó, vấn đề phát triển nguồn nhân lực tại các xã này đóng góp vai trò quan trọng trong việc xây dựng đời sống kinh tế xã hội cũng như nâng cao được dân trí của người dân trên địa bàn và giữ vững anh ninh quốc phòng trong địa bàn của các xã.
Phát triển nguồn nhân lực có trình độ, tay nghề sẽ khuyến khích người dân hăng hái sản xuất