Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực của xã hội. Trong thương mại quốc tế, mọi giao dịch đều đòi hỏi phải có tốc độ nhanh chóng, thanh toán bằng tiền mặt đã cho thấy những mặt hạn chế của nó. Do vậy vào những năm 50 của thế kỷ 20, một số ngân hàng trên thế giới đã giới thiệu thẻ thanh toán. Cho đến nay việc thanh toán bằng thẻ đã khẳng định được những tính năng ưu việt của nó so với các phương tiện thanh toán khác.
Mặc dù thẻ thanh toán đã ra đời được hơn 50 năm nhưng nó mới được biết đến ở Việt Nam khoảng 10 năm trước đây. Và đến năm 1996 chỉ có 2 ngân hàng thương mại Việt Nam là Ngân hàng Ngoại Thương và Ngân hàng cổ phần Á Châu (ACB) tham gia phát hành thẻ thanh toán. Trong những năm đầu phát hành, ACB đã từng bước khẳng định được vị trí của mình trong lĩnh vực còn rất mới mẻ ở Việt Nam này. Tuy vậy, ACB vẫn còn gặp nhiều khó khăn để có thể mở rộng và không ngừng hoàn thiện dịch vụ thanh toán thẻ của mình.
Nhận thức được tính cấp thiết phải mở rộng và hoàn thiện dịch vụ thanh toán thẻ ở Việt Nam nói chung và của Ngân hàng ACB nói riêng, em đã chọn đề tài: “ Giải pháp phát triển thẻ thanh toán tai Ngân hàng TMCP Á Châu ACB” cho đề tài tiểu luận của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài : Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận, tình hình thực tế phát hành và thanh toán thẻ tại ACB, các văn bản pháp quy liên quan.để thấy được những tồn tại trong phát hành và thanh toán thẻ , từ đó đưa ra một số ý kiến để mở rộng dịch vụ thẻ hiện nay và trong thời gian tới.
Kết cấu khoá luận của em được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động kinh doanh thẻ của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ của NHTMCP Á Châu ACB
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động kinh doanh thẻ tại NHTM Cổ phần Á Châu ACB
45 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2224 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp phát triển thẻ thanh toán tai Ngân hàng TMCP Á Châu ACB, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THẺ THANH TOÁN TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU ACB
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ THANH
LỚP NH02-01
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về thẻ thanh toán
4
I. Quá trình hình thành và phát triển của các phương tiện thanh toán trong nền kinh tế hàng hoá.
4
1. Sự xuất hiện của tiền tệ với chức năng phương tiện thanh toán
4
2. Sự xuất hiện của hệ thống ngân hàng thương mại với chức năng làm trung gian thanh toán của nền kinh tế
4
3. Sự xuất hiện của phương thức thanh toán phi tiền mặt và tính ưu việt của nó
5
4. Các phương tiện thanh toán phi tiền mặt chủ yếu
6
II. Giới thiệu chung về thẻ thanh toán
8
1. Khái niệm về thẻ thanh toán
8
2. Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ thanh toán
9
3. Đặc điểm và phân loại thẻ thanh toán
10
4. Vai trò, tiện ích và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thẻ thanh toán
12
5. Các chủ thể tham gia trong quan hệ phát hành và sử dụng thẻ thanh toán
17
6. Quy trình phát hành và sử dụng thẻ
17
7. Rủi ro trong phát hành và sử dụng thẻ
20
Chương II. Thực trạng phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng TMCP Á Châu
25
I. Giới thiệu chung về Ngân hàng TMCP Á Châu
25
1. Cơ cấu tổ chức của ACB
26
2. Tình hình hoạt động kinh doanh của ACB
27
II. Thực trạng phát hành thẻ thanh toán tại ACB
31
1. Khái quát về dịch vụ thẻ tại Ngân hàng ACB
32
2. Hoạt động phát hành thẻ tại ACB
33
3. Hoạt động thanh toán thẻ tại ACB
33
4. Đánh giá về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ của Ngân hàng
34
Chương III. Một số giải pháp nhằm mở rộng và hoàn thiện thanh toán thẻ tại Ngân hàng TMCP Á Châu.
34
I. Định hướng phát triển Ngân hàng và thẻ thanh toán
34
1. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của ACB
34
2. Định hướng phát triển thanh toán thẻ của Ngân hàng TMCP Á Châu trong thời gian tới
36
II. Những thuận lợi và khó khăn
37
1. Thuận lợi
37
2. Khó khăn
37
III. Một số giải pháp nhằm mở rộng và hoàn thiện thanh toán thẻ tại Ngân hàng TMCP Á Châu
38
1. Giải pháp vĩ mô
38
2. Giải pháp đối với Ngân hàng
39
IV. Một số kiến nghị
83
1. Đối với chính phủ
83
2. Đối với Ngân hàng Nhà nước
84
3. Đối với ACB
86
Kết luận
89
Lời mở đầu
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực của xã hội. Trong thương mại quốc tế, mọi giao dịch đều đòi hỏi phải có tốc độ nhanh chóng, thanh toán bằng tiền mặt đã cho thấy những mặt hạn chế của nó. Do vậy vào những năm 50 của thế kỷ 20, một số ngân hàng trên thế giới đã giới thiệu thẻ thanh toán. Cho đến nay việc thanh toán bằng thẻ đã khẳng định được những tính năng ưu việt của nó so với các phương tiện thanh toán khác.
Mặc dù thẻ thanh toán đã ra đời được hơn 50 năm nhưng nó mới được biết đến ở Việt Nam khoảng 10 năm trước đây. Và đến năm 1996 chỉ có 2 ngân hàng thương mại Việt Nam là Ngân hàng Ngoại Thương và Ngân hàng cổ phần Á Châu (ACB) tham gia phát hành thẻ thanh toán. Trong những năm đầu phát hành, ACB đã từng bước khẳng định được vị trí của mình trong lĩnh vực còn rất mới mẻ ở Việt Nam này. Tuy vậy, ACB vẫn còn gặp nhiều khó khăn để có thể mở rộng và không ngừng hoàn thiện dịch vụ thanh toán thẻ của mình.
Nhận thức được tính cấp thiết phải mở rộng và hoàn thiện dịch vụ thanh toán thẻ ở Việt Nam nói chung và của Ngân hàng ACB nói riêng, em đã chọn đề tài: “ Giải pháp phát triển thẻ thanh toán tai Ngân hàng TMCP Á Châu ACB” cho đề tài tiểu luận của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài : Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận, tình hình thực tế phát hành và thanh toán thẻ tại ACB, các văn bản pháp quy liên quan...để thấy được những tồn tại trong phát hành và thanh toán thẻ , từ đó đưa ra một số ý kiến để mở rộng dịch vụ thẻ hiện nay và trong thời gian tới.
Kết cấu khoá luận của em được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động kinh doanh thẻ của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh thẻ của NHTMCP Á Châu ACB
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động kinh doanh thẻ tại NHTM Cổ phần Á Châu ACB
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thẻ thanh toán:
Quá trình hình thành và phát triển của các phương tiện thanh toán trong nền kinh tế hàng hoá:
Sự xuất hiện của tiền tệ với chức năng phương tiện thanh toán:
Quá trình lưu thông hàng hóa phát triển, ngoài quan hệ hàng hóa-tiền tệ, còn phát sinh những nhu cầu vay mượn, thuế khóa, nộp địa tô…bằng tiền. Trong những trường hợp này, tiền tệ chấp nhận chức năng thanh toán.
Như vậy, khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền tệ không còn là môi giới của trao đổi hàng hóa, mà là khâu bổ sung cho quá trình trao đổi, tức là tiền tệ vận động tách rời sự vận động của hàng hóa.
Tiền tệ khi thực hiện chức năng làm phương tiện chi trả đã tạo ra khả năng làm cho số lượng tiền mặt cần thiết cho lưu thông giảm đi tương đối vì sự mua bán chịu, thực hiện thanh toán bù trừ lẫn nhau.
Muốn được chấp nhận làm phương tiện thanh toán, tiền tệ phải có sức mua ổn định, tương đối bền vững theo thời gian, chính sức mua ổn định đã tạo cho người ta niềm tin và sự tín nhiệm tiền tệ.
2. Sự xuất hiện của hệ thống ngân hàng thương mại với chức năng làm trung gian thanh toán của nền kinh tế:
Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay: Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi. Đối với người đi vay, họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn kinh doanh tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp, chi tiêu, thanh toán mà không chi phí nhiều về sức lực thời gian cho việc tìm kiếm những nơi cung ứng vốn riêng lẻ. Đặc biệt là đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất.
3. Sự xuất hiện của phương thức thanh toán phi tiền mặt và tính ưu việt của nó:
Cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng và những ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin, tự động hóa…, có rất nhiều hình thức TTKDTM tiện lợi, an toàn đã, đang được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Phương tiện thanh toán tiền mặt là không thể thiếu, song ngày nay, thanh toán bằng tiền mặt không còn là phương tiện thanh toán tối ưu trong các giao dịch thương mại, dịch vụ nữa, đặc biệt là giao dịch có giá trị và khối lượng lớn. Các hoạt động giao dịch thương mại, dịch vụ, hàng hóa ngày nay diễn ra mọi lúc, mọi nơi, vượt qua cả giới hạn về khoảng cách. Xét trên nhiều góc độ, khi hoạt động thanh toán trong xã hội còn thực hiện phổ biến bằng tiền mặt, nhất là trong thanh toán các khoản có giá trị lớn có thể dẫn đến một số bất lợi và rủi ro như: Chi phí của xã hội để tổ chức hoạt động thanh toán (như chi phí của Chính phủ cho việc in tiền; chi phí vận chuyển, bảo quản, kiểm, đếm tiền của hệ thống ngân hàng, của các chủ thể tham gia giao dịch thanh toán) là rất tốn kém; Việc thực hiện giao dịch thanh toán bằng tiền mặt với khối lượng lớn dễ bị các đối tượng phạm pháp lợi dụng để gian lận, trốn thuế, trì hoãn hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng hoặc các chủ nợ; Vấn đề an ninh trong thanh toán, bảo quản, vận chuyển tiền mặt luôn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm; Sử dụng nhiều tiền mặt trong giao dịch thanh toán của xã hội sẽ là môi trường thuận lợi cho tội phạm lưu hành tiền giả, đe dọa trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức, cá nhân và tình hình an ninh quốc gia. Các bất lợi và rủi ro trên đây là vấn đề xảy ra với bất kỳ quốc gia nào, song với các nước mà thanh toán bằng tiền mặt còn ở mức phổ biến trong xã hội, tình hình sẽ càng phức tạp và khó kiểm soát hơn.
Hiện các hình thức thanh toán điện tử phổ biến gồm: Thanh toán thông qua thẻ (POS, ATM…), trên Internet thông qua tài khoản mở tại ngân hàng, thông qua điện thoại di động và thanh toán thông qua một mạng lưới mà các thành viên tham gia cùng chấp nhận một nguyên tắc chung như hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT, trong nước là hệ thống CITAD…
Dựa vào chủ thể tham gia, có thể phân chia thương mại điện tử ra các loại hình sau:
- Giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp - B2B (business to business).
- Giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng - B2C (business to consumer).
- Giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước - B2G (business to government).
- Giao dịch trực tiếp giữa các người tiêu dùng với nhau - C2C (consumer to consumer).
- Giao dịch giữa cơ quan nhà nước với cá nhân - G2C (government to consumer).
Điếm khác biệt lớn nhất giữa thanh toán điện tử và thanh toán truyền thống là thông qua các phương tiện điện tử, loại bỏ hầu hết việc giao nhận giấy tờ và việc ký truyền thống thay vào đó là các phương pháp xác thực mới.
Dùng phương pháp mới để xác nhận đúng người có quyền ra lệnh thanh toán mà không cần tiếp xúc trực tiếp. Lợi ích lớn nhất là sự tiết kiệm chi phí và tạo thuận lợi cho các bên giao dịch. Các giao dịch qua kênh điện tử có chi phí vận hành rất thấp. Chi phí chủ yếu là đầu tư ban đầu, trong điều kiện công nghệ phát triển nhanh chi phí đầu tư cũng giảm đáng kể. Doanh nghiệp không cần phải đầu tư nhân sự, địa điểm và các chi phí lưu chuyển hồ sơ cho việc giao dịch.
Giao dịch bằng phương tiện điện tử nhanh hơn so với phương pháp truyền thống. Thông thường giao dịch tại quầy cho một khách hàng chuyển tiền mất khoảng 15 phút, không kể thời gian đi lại và chờ đợi nhưng giao dịch trên Internet, Mobile hoặc qua hệ thống thẻ chỉ qua một vài thao tác đơn giản trong một vài phút.
Với thanh toán điện tử, các bên có thể tiến hành giao dịch khi ở cách xa nhau, không bị giới hạn bởi không gian địa lý. Với người tiêu dùng, họ có thể ngồi tại nhà để đặt hàng, mua sắm nhiều loại hàng hóa, dịch vụ nhanh chóng. Việc không phải mang theo nhiều tiền mặt, giảm thiểu rủi ro mất tiền, tiền giả, nhầm lẫn… sẽ giảm bớt được việc thiếu minh bạch so với giao dịch bằng tiền mặt.
4. Các phương tiện thanh toán phi tiền mặt chủ yếu:
Thẻ thanh toán giao dịch qua máy ATM, máy POS
Séc: là một trong những phương tiện thanh toán đã có lâu đời ở các nước phát triển, dựa trên Công ước thế giới về Séc năm 1933, các nước đều ban hành Luật Séc, hoặc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Séc, để việc sử dụng séc được nhanh chóng, thuận tiện không chỉ trong cùng địa phương và cùng tổ chức phát hành séc, các nước đều có Trung tâm xử lý thanh toán bù trừ séc ngoài hệ thống và khác địa phương do Ngân hàng Trung ương hoặc Hiệp hội Ngân hàng quản lý, nhờ vậy, phương tiện thanh toán bằng séc được sử dụng phổ biến ở nhiều nước phát triển.
Thương mại điện tử (TMĐT) : còn nhiều rào cản: theo đánh giá của lãnh đạo Bộ Công thương, trong những năm gần đây, TMĐT đã được ứng dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp có website tăng từ 31% năm 2005 lên 45% năm 2008, tỷ lệ doanh nghiệp đã xây dựng mạng nội bộ năm 2008 đạt trên 88% so với 84% của năm trước. Hiện có tới 99% số doanh nghiệp đã kết nối internet. Tuy nhiên, do thói quen mua sắm của người tiêu dùng và khâu thanh toán khiến TMĐT Việt Nam chậm phát triển; người mua và người bán vẫn thực hiện theo phương thức “tiền trao cháo múc”, vì người tiêu dùng lo ngại mua phải sản phẩm không dùng được hoặc chất lượng.
II. Giới thiệu chung về thẻ thanh toán:
1.Khái niệm về thẻ thanh toán:
Đối với thẻ thanh toán có nhiều khái niệm để diễn đạt nó, mỗi một cách diễn đạt nhằm làm nổi bật một nội dung nào đó. Sau đây là một số khái niệm về thẻ thanh toán:
Thẻ thanh toán (thẻ chi trả) là một phương tiện thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ hoặc có thể được dùng để rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý hoặc các máy rút tiền tự động.
Thẻ thanh toán là một loại thẻ giao dịch tài chính được phát hành bởi Ngân hàng, các Tổ chức tài chính hay các công ty.
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt mà người chủ thẻ có thể sử dụng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ tại các điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ.
Thẻ thanh toán là phương thức ghi sổ những số tiền cần thanh toán thông qua máy đọc thẻ phối hợp với hệ thống mạng máy tính kết nối giữa Ngân hàng/Tổ chức tài chính với các điểm thanh toán (Merchant). Nó cho phép thực hiện thanh toán nhanh chóng, thuận lợi và an toàn đối với các thành phần tham gia thanh toán.
Tóm lại: các cách diễn đạt trên đều phản ánh lên đây là một phương thức thanh toán mà người sở hữu thẻ có thể dùng để thanh toán tiền mua hàng hoá dịch vụ hay rút tiền mặt tự động thông qua máy đọc thẻ hay các máy rút tiền tự động.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ thanh toán:
- Năm 1990 hợp đồng làm đại lý chi trả thẻ Visa giữa ngân hàng Pháp BFCE và Ngân hàng Ngoại thương VN đã mở đầu cho sự du nhập của thẻ thanh toán vào VN. Sự liên kết này chủ yếu là nhằm phục vụ cho lượng khách du lịch quốc tế đang đến VN ngày càng nhiều. Sau Ngân hàng Ngoại Thương, Sài Gòn Thương Tín cũng liên kết với trung tâm thanh toán thẻ Visa để làm đại lý thanh toán. Có lẽ chính sách mở cửa thông thoáng đã đem lại cho VN một bộ mặt kinh tế – xã hội nhiều triển vọng. Các dự án đầu tư nước ngoài tăng từ số lượng đến quy mô, các định chế tài chính lớn đã chú ý đến VN và đi theo những tập đoàn này là các dịch vụ song hành trong đó thẻ thanh toán là không thể thiếu được.
- Năm 1995 cùng với Ngân hàng Ngoại thương TP.HCM, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu, Ngân hàng Liên doanh First-Vina-Bank và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Eximbank được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN cho phép chính thức gia nhập tổ chức thẻ quốc tế Mastercard.
- Năm 1996 Ngân hàng Ngoại thương chính thức là thành viên của tổ chức Visa International. Tiếp sau đó là Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Công thương VN cũng lần lượt là thành viên chính thức của tổ chức Visa Card, trong đó Ngân hàng Ngoại thương và Á Châu thực hiện thanh toán trực tiếp với tổ chức này. Cũng trong năm này Ngân hàng Ngoại thương VN (Vietcombank) phát hành thí điểm thẻ ngân hàng đầu tiên, đồng thời Hội các ngân hàng thanh toán thẻ VN cũng được thành lập với bốn thành viên sáng lập gồm Vietcombank, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Xuất nhập khẩu (Eximbank) và First Vinabank. Hành lang pháp lý cho hoạt động thẻ lúc ấy chỉ là quyết định số 74 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ký ban hành ngày10/4/1993, qui định “thể lệ tạm thời về phát hành và sử dụng thẻ thanh toán”. Việc ứng dụng thẻ ở VN vào thời điểm đó còn bị giới hạn rất nhiều về cơ sở pháp lý, điều kiện kinh tế, hạ tầng kỹ thuật… Trên cơ sở thỏa thuận của Ngân hàng Nhà Nước, ngân hàng thương mại thí điểm phát hành thẻ tự xây dựng qui chế, hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ, tức tính pháp lý chỉ dừng ở mức điều chỉnh “nội bộ” giữa ngân hàng phát hành và chủ thẻ.
- Thị trường thẻ năm 2006, 2007 trở lên sôi động vì VN đã bước vào sân chơi rộng là WTO, thị trường tài chính VN càng cạnh tranh quyết liệt hơn khi có thêm nhiều ngân hàng nước ngoài đầu tư vào đây và dịch vụ thẻ tín dụng, thẻ ATM là một loại “vũ khí” đắc lực để ngân hàng thâm nhập thị trường. Hàng loạt sản phẩm thẻ thanh toán ra đời, mở ra một cuộc “so tài” phát hành thẻ giữa các ngân hàng trong nước. Đầu tiên là Ngân hàng TMCP Kỹ thương VN – Techcombank, ngân hàng này đã tung ra hàng loạt thẻ thanh toán, nổi trội là thẻ Fastaccess. Tiếp theo đó, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín – Sacombank đã kết hợp cùng tổ chức Visa ra mắt thẻ thanh toán Quốc tế Sacom Visa Debit. Đây là phương tiện thanh toán năng động nhắm vào giới doanh nhân: chủ tài khoản có thể dùng thẻ để thanh toán trong và ngoài nước.
3. Đặc điểm và phân loại thẻ thanh toán:
Có nhiều cách để phân loại thẻ thanh toán: phân loại theo công nghệ sản xuất, theo chủ thể phát hành, chất thanh toán của thẻ, theo phạm vi lãnh thổ...
3.1. Phân loại theo công nghệ sản xuất:
Có 3 loại:
a. Thẻ khắc chữ nổi (EmbossingCard): dựa trên công nghệ khắc chữ nổi, tấm thẻ đầu tiên được sản xuất theo công nghệ này. Hiện nay người ta không còn sử dụng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật quá thô sơ dễ bị giả mạo.
b. Thẻ băng từ (Magnetic stripe): dựa trên kỹ thuật thư tín với hai băng từ chứa thông tin đằng sau mặt thẻ. Thẻ này đã được sử dụng phổ biến trong 20 năm qua , nhưng đã bộc lộ một số nhược điểm: do thông tin ghi trên thẻ không tự mã hoá được, thẻ chỉ mang thông tin cố định, không gian chứa dữ liệu ít, không áp dụng được kỹ thuật mã hoá, bảo mật thông tin...
c. Thẻ thông minh (Smart Card): đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, thẻ có cấu trúc hoàn toàn như một máy vi tính.
3.2. Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ:
a. Thẻ tín dụng (Credit Card): là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo đó người chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng không phải trả lãi để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh, khách sạn, sân bay ... chấp nhận loại thẻ này.
Gọi đây là thẻ tín dụng vì chủ thẻ được ứng trước một hạn mức tiêu dùng mà không phải trả tiền ngay, chỉ thanh toán sau một kỳ hạn nhất định. Cũng từ đặc điểm trên mà người ta còn gọi thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ hoãn hiệu (delayed debit card) hay chậm trả.
b. Thẻ ghi nợ (Debit card): đây là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài khoản tiền gửi. Loại thẻ này khi đợc sử dụng để mua hàng hoá hay dịch vụ, giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt tại cửa hàng, khách sạn ... đồng thời chuyển ngân ngay lập tức vào tài khoản của cửa hàng, khách sạn... Thẻ ghi nợ còn hay được sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động.
Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuôc vào số dư hiện hữu trên tài khoản của chủ thẻ.
Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản:
- Thẻ online: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản chủ thẻ.
- Thẻ offline: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch đợc khấu trừ vào tài khoản chủ thẻ sau đó vài ngày.
c. Thẻ rút tiền mặt (Cash card): là loại thẻ rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hoặc ở ngân hàng. Với chức năng chuyên biệt chỉ dùng để rút tiền, yêu cầu đặt ra đối với loại thẻ này là chủ thẻ phải ký quỹ tiền gởi vào tài khoản ngân hàng hoặc chủ thẻ được cấp tín dụng thấu chi mới sử dụng được.
Thẻ rút tiền mặt có hai loại:
Loại 1: chỉ rút tiền tại những máy tự động của Ngân hàng phát hành.
Loại 2: được sử dụng để rút tiền không chỉ ở Ngân hàng phát hành mà còn được sử dụng để rút tiền ở các Ngân hàng cùng tham gia tổ chức thanh toán với Ngân hàng phát hành thẻ.
3.3. Phân loại theo phạm vi lãnh thổ:
- Thẻ trong nước: là thẻ được giới hạn trong phạm vi một quốc gia, do vậy đồng tiền giao dịch phải là đồng bản tệ của nước đó.
- Thẻ quốc tế: đây là loại thẻ được chấp nhận trên toàn thế giới, sử dụng các ngoại tệ mạnh để thanh toán.
3.4. Phân loại theo chủ thể phát hành:
- Thẻ do Ngân hàng phát hành (Bank Card): là loại thẻ do ngân hàng phát hành giúp cho khách hàng sử dụng một số tiền do Ngân hàng cấp tín dụng.
- Thẻ do tổ chức phi ngân hàng phát hành: là loại thẻ du lịch và giải trí của các tập đoàn kinh doanh lớn hoặc các công ty xăng dầu lớn, các cửa hiệu lớn... phát hành như Diner's Club, Amex...
4. Vai trò, tiện ích và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thẻ thanh toán:
Vai trò, tiện ích:
Với đặc tính chức năng của mình, thẻ tín dụng mang lại rất nhiều tiện ích cho người sử dụng.
- Nếu sở hữu một thẻ tín dụng và thường xuyên mua sắm tại các điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ: Siêu thị, cửa hàng, sân bay, thanh toán trực tuyến… thì lợi ích của việc này là được chậm trả những khoản tiền bạn dùng để mua sắm. Ngân hàng ứng trước một hạn mức cho thẻ tín dụng của bạn để thực hiện thanh toán trong một tháng, và sau đó bạn có tối