Trong nền kinh tế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước, các doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm để có thể tăng sức cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận.
Muốn như vậy doanh nghiệp phải có thông tin đầy đủ về sản xuất kinh doanh, đặc biệt là thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt của qúa trình sản xuất, có mối quan hệ khăng khít với nhau, việc hạch toán và phân tích chi phí cho phép doanh nghiệp biết chắc mình phải sản xuất và phải bán với mức giá là bao nhiêu mới đảm bảo bù đắp được chi phí và có lãi. Để quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cần tổ chức tốt công tác kế toán chí phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có ý nghiã hết sức quan trọng và có ý nghĩa thiết thực đối với việc tăng cường công tác quản lý chi phí sản xuất giá thành nói riêng và công tác quản lý doanh nghiệp nói chung.
Tại công ty Rau Quả Hà Tĩnh trong những năm qua, công tác kế toán nói chung, kế toán chi phí sản xuất và giá thành nói riêng được đổi mới thích ứng và phát huy đầy đủ tác dụng trong cơ chế thị trường.
69 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm rau quả đóng hộp tại Công ty Rau Quả Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước, các doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm để có thể tăng sức cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận.
Muốn như vậy doanh nghiệp phải có thông tin đầy đủ về sản xuất kinh doanh, đặc biệt là thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt của qúa trình sản xuất, có mối quan hệ khăng khít với nhau, việc hạch toán và phân tích chi phí cho phép doanh nghiệp biết chắc mình phải sản xuất và phải bán với mức giá là bao nhiêu mới đảm bảo bù đắp được chi phí và có lãi. Để quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cần tổ chức tốt công tác kế toán chí phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có ý nghiã hết sức quan trọng và có ý nghĩa thiết thực đối với việc tăng cường công tác quản lý chi phí sản xuất giá thành nói riêng và công tác quản lý doanh nghiệp nói chung.
Tại công ty Rau Quả Hà Tĩnh trong những năm qua, công tác kế toán nói chung, kế toán chi phí sản xuất và giá thành nói riêng được đổi mới thích ứng và phát huy đầy đủ tác dụng trong cơ chế thị trường.
Trong thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty Rau Quả Hà Tĩnh. Nhận thức được vai trò của công tác kế toán đối với việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, được sự hướng dẫn của thầy giáo Phạm Quang, tôi đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu và chọn đề tài" Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm rau quả đóng hộp tại Công ty Rau Quả Hà Tĩnh" làm đề tài tốt nghiệp.
Nội dung của đề tài tốt nghiệp gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Rau Quả Hà Tĩnh.
Phần III: Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Rau Quả Hà Tĩnh
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I- CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT.
1- Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất:
Quá trình hoat động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp là quá trình biến đổi một cách có ý thức, có mục đích, các yếu tố đầu vào sản xuất tạo thành một sản phẩm nhất định, hay nói cách khác là quá trình doanh nghiệp phải bỏ ra các chi phí để doanh nghiệp tiến hành sản xuất nhất thiết doanh nghiệp phải có đủ ba yếu tố cơ bản đó là:
- Tư liệu lao động.
- Đối tượng lao động.
- Sức lao động.
Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất cũng đồng thời là quá trình doanh nghiệp chi ra những chi phí sản xuất tương ứng. Sự tham gia của 3 yếu tố này vào quá trình sản xuất đã hình thành nên các yếu tố chi phí cấu thành giá trị của sản phẩm sáng tạo ra.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá và cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, vấn đề hạch toán kinh doanh toàn bộ chi phí được biểu hiện bằng tiền, được xác định là chi phí sản xuất mà doanh nghiệp phải chi ra để sản xuất sản phẩm.
Vậy trong các doanh nghiệp, chi phí sản xuất là toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá và các chi phí khác đã chi ra để tiến hành các họat động sản xuất trong một thời kỳ nhất định được biểu hiện bằng tiền.
Trong doanh nghiệp, chi phí sản xuất bao gồm rất nhiều loại, mỗi loại có nội dung kinh tế cũng như công dụng trong quá trình sản xuất khác nhau. Do đó, để quản lý chặt chẽ; với giám đốc việc thực hiện tiết kiệm và sử dụng hợp lý chi phí cũng như để tổ chức tốt công tác kế toán thì phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất theo những tiêu thức nhất định. Việc phân loại chi phí một cách khoa học và hợp lý không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với hạch toán mà còn là tiền đề quan trọng của kế hoạch hoá, kiểm tra và phân tích chi phí sản xuất của toàn doanh nghiệp cũng như các bộ phận cấu thành giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp. Hiện nay có các cách phân loại như sau:
a- Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí (phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố).
Theo cách phân loại này, căn cứ vào tính chất, nội dung kinh tế của các chi phí giống nhau xếp vào một yếu tố, không phân biệt chi phí đó phát sinh trong lĩnh vực hoạt động nào, ở đâu và mục đích hoặc tác dụng của chi phí như thế nào.
Toàn bộ Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành các yếu tố sau:
- Chi phí Nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ chi phí về các loại đối tượng lao động là nguyên vật liệu, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, vật liệu xây dung cơ bản... mà doanh nghiệp đã sử dụng cho các hoạt động sản xuất.
- Chi phí nhân công là toàn bộ số tiền công và các khoản khác phải trả cho người lao động trong doanh nghiệp.
- Chi phí khấu hao Tài sản cố định: Là toàn bộ số phải trích khấu hao trong tháng (trong kỳ) đối với tất cả các loại tài sản cố định trong doanh nghiệp
- Chi phí dịch vụ mua ngoài là số tiền trả về các loại dịch vụ mua ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh trong doanh nghiệp: Tiền điện, tiến nước. tiền bưu phí.
- Chi phí khác bằng tiền: Là toàn bộ số chi phí bằng tiền phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, ngoài 4 chi phí trên.
Phân loại Chi phí sản xuất theo nội dung tính chất kinh tế của chúng có tác dụng cho biết kết cấu, tỷ trọng từng loại chi phí mà doanh nghệp đã chi ra trong hoạt động sản xuất, kinh doanh để lập bảng thuyết minh, báo cáo Tài chính phục vụ cho yêu cầu thông tin và quản lý doanh nghiệp để phân tích tình hình thực hiện đự toán, chi phí lập dự toán Chi phí sản xuất kinh doanh cho kỳ sau.
b- Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí (theo khoản mục):
Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí trong sabr xuất đề ra các khoản mục chi phí khác nhau, mỗi khoản mục chi phí chỉ bao gồm những chi phí có cùng mục đích và công dụng, không phân biệt chi phí có nội dung kinh tế như thế nào. Toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh cho kỳ được chia ra làm các khoản mục chi phí sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm chi phí về Nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng vào mục đích trực tiếp sản xuất sản phẩm không tính vào khoản mục này những chi phí nguyên vật liệu sử dụng vào mục đích sản xuất chung và những hoạt động ngoài sản xuất.
- Chi phí nhân công trực tiếp:
Bao gồm chi phí về tiền công, tiền trích BHXH, BHYT và Kinh phí công đoàn của công nhân trực tiếp sản xuất, không tính vào khoản mục này, số tiền công và trích BHXH, BHYT và Kinh phí công đoàn của nhân viên sản xuất chung, nhân viên quản lý và nhân viên bán hàng.
- Chi phí sán xuất chung:
Là những chi phí dùng cho hoạt động sản xuất chung ở các phân xưởng, đội sản xuất ngoài 2 khoản mục chi phí trực tiếp đã nêu trên bao gồm các tiểu khoản:
+ Chi phí nhân viên ( phân xưởng, đội, trại sản xuất):
Phản ánh các chi phí liên quan và phải trả cho nhân viên phân xưởng (đội, trại) như: Tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp trả bảo hiểm... cho nhân viên. quản lý, thống kê, thủ kho, tiếp liệu công nhân phân xưởng sửa chữa ở (xưởng, đội, trại sản xuất đội)
+ Chi phí vật liệu: Phản ánh chi phí, vật liệu sử dụng chung như chi phí NVL dùng để bảo dưỡng, sửa chữa tài sản cố định, những vật liệu dùng cho nhu cầu quản lý chung ở phân xưởng, đội sản xuất.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định:
Phản ánh toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định vô hình, tài sản cố định thuê ngoài ở các phân xưởng, đội sản xuất như khấu hao máy móc thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải truyền dẫn, nhà xưởng, vườn cây lâu năm, súc vật sinh sản, súc vật làm việc.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài:
Phản ánh về những chi phí về lao vụ, dịch vụ mua từ bên ngoài để phục vụ cho hoạt động sản xuất chung ở phân xưởng đội sản xuất như chi phí về điện nước, khí nén hơi, chi phí điện thoại, fax, chi phí sửa chữa tài sản cố định mua ngoài.
+ Chi phí bằng tiền khác:
Phản ánh những chi phí bằng tiền ngoài những chi phí nêu trên phục vụ cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng, đội sản xuất.
Phân loại chi phí theo mục đích và công dụng kinh tế có tác dụng phục vụ cho yêu cầu quản lý chi phí sản xuất theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích tình hình thực hiện theo kế hoạch giá thành làm tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí sản xuất và lập kề hoạch giá thành sản phẩm cho kỳ sau.
c- Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với số lượng sản phẩm công việc, lao vụ sản xuất trong kỳ:
Chi phí sản xuất được chia thành hai loại:
- Chi phí khả biến (biến phí):
Là những chi phí có sự thay đổi về lượng tương quan tỷ lệ thuận với sự thay đổi của khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. Thuộc loại chi phí này là chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp.
- Chi phí cố định (định phí):
Là chi phí không thay đổi về tổng số dù có sự thay đổi trong mức độ hoạt động của sản xuất hoặc khối lượng sản phẩm, công việc lao vụ sản xuất trong kỳ.
Phân loại chi phí sản xuất thành chi phí khả biến và chi phí cố định có tác dụng lớn đối với việc quản trị kinh doanh, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra quyết định quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh.
d- Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí sản xuất và mối quan hệ với đối tượng chi phí:
Theo cách này, chi phí sản xuất được chia làm hai loại:
- Chi phí trực tiếp:
Là những chi phí sản xuất quan hệ trực tiếp với việc sản xuất ra một loại sản phẩm, một công việc nhất định, những chi phí này kế toán có thể căn cứ vào số liệu chứng từ kế toán để ghi.
- Chi phí gián tiếp:
Là những chi phí do nhiều yếu tố khác nhau tập hợp lại theo cùng một công dụng như chi phí sản xuất chung.
Cách phân loại chi phí theo nội dung cấu thành của chi phí giúp cho việc nhận thức vị trí của từng loại chi phí trong việc hình thành giá thành sản phẩm để tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất thích hợp với từng loại.
Mỗi cách phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa đối với công tác quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở những góc độ khác nhau và giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau và nhằm một mục đích chung là quản lý tốt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, do đó với việc phân loại chi phí sản xuất cần phải phân loại giá thành.
2. Giá thành sản phẩm và phân loại giá thành sản phẩm:
a- Giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động và hạ được giá thành . Như ta đã biết, đối với các doanh nghiệp việc hạ giá thành sản phẩm là con đường chủ yếu để tăng lợi nhuận, nó cũng là tiêu đề để hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh trên thị trường kể cả trong và ngoài nước.
Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, việc hạ giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp sẽ mang lại sự tiết kiệm lao động xã hội, tăng tích luỹ cho nền kinh tế nói chung. Đặc biệt khi chính sách thuế của nhà nước thay đổi, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Việc hạ giá thành sản phẩm sẽ làm tăng lợi nhuận, do đó làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Như vậy vấn đề hạ giá thành sản phẩm không chỉ là vấn đề quan tâm của từng người sản xuất, từng doanh nghiệp mà còn là vấn đề quan tâm của từng ngành, toàn xã hội.
Giá thành cao hay thấp, tăng hay giảm đồng nghĩa với việc lãng phí hay tiết kiệm lao động xã hội (bao gồm cả lao động sống và lao động vật hoá) trong quá trình sản xuất sản phẩm. Hay nói cách khác, giá thành sản phẩm có thể phản ánh trình độ sử dụng nguyên- nhiên vật liệu, năng lượng, khả năng tận dụng máy móc thiết bị sản xuất, mức độ trang bị và áp dụng kỹ thuật tiên tiến, trình độ tổ chức, quản lý lao động, trình độ quản lý kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
b- Các loại giá thành sản phẩm:
Để phục vụ cho công tác hạch toán và quản lý giá thành, giá thành sản phẩm được chia thành nhiều loại khác nhau.
- Phân loại giá thành theo thời gian và cơ sở số liệu để tính, giá thành sản phẩm được chia thành:
+ Giá thành kế hoạch:
Là giá thành được tính trước khi tiến hành quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm do bộ phận kế hoạch thực hiện. Giá thành kế hoạch sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch, được xem là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là cơ sở để so sánh phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp.
+ Giá thành định mức:
Việc tính giá thành định mức cũng có thể thực hiện trước khi sản xuất chế tạo sản phẩm đựa vào các định mức, đự toán chi phí hiện hành. Giá thành định mức là thước đo chính xác các chi phí cần thiết sản xuất ra sản phẩm tại những thời điểm nhất định, gia thành định mức cũng được coi là gốc để so sánh với thực tế. Qua đó cho biết những chênh lệch tiết kiệm hay lãng phí, từ đó doanh nghiệp có những biện pháp phát triển đẩy mạnh sản xuất, triệt để tiết kiệm chi phí và có những biện pháp khắcphục tồn tại một cách kịp thời.
+ Giá thành thực tế:
- Nếu giá thành kế hoạch và ghía thành định mức chỉ bao gồm các chi phí cần thiết để sản xuất sản phẩm trong phạm vi kế hoạch và định mức giá thành thực tế bao gồm tất cả các chi phí thực tế phát sinh trong đó có cả chi phí vượt định mức ngoài kế hoạch dự kiến như: Thiệt hại trong sản xuất, giá trị vật tư thiếu hụt...vv. như vậy giá thành thực tế là gia thành được xác định sau khi đã hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành thực tế trước hết là cơ sở xác định giá trị sản phẩm, giá bán. Mặt khác giá thành thực tế còn phản ánh tổng hợp kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm là chỉ tiêu để phân tích đánhh giá kết quả hoạt động sản xuất kinmh doanh cuả doanh nghiệp, ngoài ra còn là căn cứ cho việc xây dựng giá thành kế hoạch cho kỳ sau và đảm bảo cho giá thành kế hoạch càng có tính sát thực.
- Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán:
Theo cách này giá thành sản phẩm được chia làm 2 loại:
+ Giá thành sản xuất:
Giá thành sản phẩm của sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung tính cho những sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành. Giá thành sản xuất của sản phẩm được sử dụng ghi sổ cho sản phẩm đã hoàn thành nhập kho hoặc giao cho khách hàng. Giá thành sản xuất sản phẩm cũng là căn cứ để tính toán giá vốn hàng bán và lãi gộp của doanh nghiệp sản xuất.
+ Giá thành toàn bộ:
Giá thành toàn bộ của sản phẩm bao gồm giá thành sản xuất của sản phẩm tiêu thụ cộng với chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm đó. Giá thành toàn bộ của sản phẩm chỉ được tính toán và xác định khi có sản phẩm, công việc lao vụ được tiêu thụ. Giá thành toàn bộ của sản phẩm là căn cứ để tính toán, xác định lợi nhuận.
3- Đối tượng kế toán Chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành.
Trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, có thể nói xác định đúng đắn đối tượng kế toán chi phí sản xuất vừa là công việc đầu tiên, vừa là công việc có tính chất định lượng cho toàn bộ khâu kế toán này. Bởi vì căn cứ vào đối tượng kế toán chi phí sản xuất đã xác định, kế toán tiến hành tập hợp chi phí sản xuất cho các đối tượng liên quan, xác định phương pháp tập hợp chi phí sản xuất một cách hợp lý, đồng thời cung cấp số liệu qua tính giá thành sản phẩm chính xác, kịp thời.
a - Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất:
Việc tập hợp chi phí sản xuất, phân loại chi phí sản xuất, không chỉ đơn thuần là phương tiện để đi đến mục đích cuối cùng là tính giá thành. Ngoài ra nó còn đáp ứng yêu cầu kiểm tra, phân tích chi phí nhằm sử dụng chi phí có hiệu quả nhất.
Xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là một trong những vấn đề then chốt đảm bảo tính giá thành chính xác.
Đối tượng kế toán chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn và chi phí sản xuất cần phải tập hợp nhằm đáp ứng nhu cầu kiểm tra giám sát chi phí và yêu cầu tính giá thành sản phẩm.
Phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí trong doanh nghiệp sản xuất:
- Nơi phát sinh chi phí như: Phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất, giai đoạn công nghệ...
- Nơi chịu chi phí như: Sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm, đơn đặt hàng...
Để xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất cần phải căn cứ trên những đặc điểm cơ bản sau:
- Đặc điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp.
- Quy trình công nghệ kỷ thuật sản xuất sản phẩm.
- Địa điểm phát sinh chi phí, mục đích công dụng của chi phí.
- Yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Dựa vào những đặc điểm trên, đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất có thể là:
- Từng phân xưởng, từng bộ phận, tổ đội sản xuất hoặc toàn doanh nghiệp.
- Từng giai đoạn (bước) công nghệ hoặc toàn bộ quy trình công nghệ.
- Từng sản phẩm, từng đơn đặt hàng, từng hạng mục công trình.
- Từng nhóm sản phẩm.
- Từng bộ phận chi tiết sản phẩm.
Sau khi đã xác định được đối tượng tập hơp chi phí sản xuất nhiệm vụ của kế toán là phải tổ chức tập hợp chi phí sản xuất toàn doanh nghiệp, theo đúng đối tượng chi phí sản xuất đã xác định, nhằm cung cấp số liệu cho việc tính giá thành theo đối tượng tính giá thành.
b- Đối tượng tính giá thành sản phẩm:
Đối tượng tính giá thành là loại sản phẩm, dịch vụ, lao vụ, nhất định đòi hỏi phải tính được giá thành đơn vị.
Việc xác định đúng đắn đối tượng tính giá thành là công việc thiết yếu nhằm phát huy tốt vai trò của việc quản lý chỉ tiêu giá thành. Để xác định được đối tượng tính giá thành cần xuất phát từ những căn cứ cụ thể.
Người ta có thể sử dụng các căn cứ sau đây:
- Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất:
Nếu doanh ngiệp sản xuất sản phẩm có tính chất đơn chiếc như: Đóng tàu, sửa chữa ô tô... thì đối tượng tính giá thành là từng sản phẩm, từng công việc, từng đơn đặt hàng.
Nếu sản xuất, chế tạo hàng loạt: Từng loạt máy công cụ trong doanh nghiệp cơ khí công cụ...vận tải hàng hoá, vận tải hành khách, kinh doanh buồng ngủ, hàng ăn uống, trong hoạt động dịch vụ du lịch thì đối tượng tính giá thành là từng sản phẩm hoặc hoạt động dịch vụ đã hoàn thành.
- Căn cứ vào quy trình sản xuất sản phẩm.
Nếu quy trình sản xuất đơn giản thì đối tượng tính giá thành chỉ có thể là sản phẩm ở cuối quy trình sản xuất.
Nếu quy trình công nghệ phức tạp kiểu liên tục thì đối tượng tính giá thành là sản phẩm ở giai đoạn cuối và cũng có thể là nửa thành phẩm ở từng công đoạn chế biến.
Nếu quy trình sản xuất phức tạp kiểu song song (lắp ráp) thì đối tượng tính giá thành có thể là từng chi tiết, bộ phận sản phẩm hoàn thành và thành phẩm cuối cùng đã hoàn thành.
- Căn cứ vào đặc điểm sử dụng thành phẩm và nửa thành phẩm. Khi nửa thành phẩm có tính chất hàng hoá thì bắt buộc tính giá thành của nửa thành phẩm.
- Căn cứ vào yêu cầu quản lý, khả năng và trình độ quản lý của doanh nghiệp nhất là trình độ kế toán.
Đơn vị tính giá thành phải là đơn vị tính được thừa nhận phổ biến trong nền kinh tế quốc dân, phù hợp với tính chất lý hoá của sản phẩm.
Từ những căn cứ trên, nhiệm vụ của kế toán là xác định đối tượng tính giá thành một cách phù hợp, đúng đắn.
c- Mối quan hệ giữa đối tượng chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành.
Tuy là 2 khái niệm khác nhau song chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và trong một số trường hợp thì chúng trùng nhau.
- Về sự giống nhau: Ta thấy rằng cả hai đều phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí và cùng phục vụ cho công tác quản lý, phân tích và kiểm tra chi phí giá thành... do đó trong nhiều trường hợp hai đối tượng này trùng nhau: Đối với quy chế tạo ra một sản phẩm như ở