Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu và rộng hậu WTO, lại bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngành Ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức. Nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng đang là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính nói chung và của các Ngân hàng nói riêng.
Năm 2008 là một năm đầy sóng gió đối với nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Những khó khăn này được cụ thể hóa qua cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế ở các quốc gia có nên kinh tế phảt triển. Như một hệ quả khó tránh khỏi, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển chịu những thiệt thòi nhất định, Viêt Nam không nằm ngòai số đó. Những biến động xấu này được tiên đoán sẽ còn tiếp diễn ít nhất đến cuối năm 2009, đầu năm 2010
Trong mấy năm gần đây, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng tuy đạt được những kết quả đáng kể nhưng vẫn còn hạn chế và gặp không ít các khó khăn trở ngại. Những gì làm được hôm nay còn nhỏ bé so với những đòi hỏi bức thiết ngày càng tăng về vốn cố định của các doanh nghiệp.
Nghiên cứu về vấn đề này em mong muốn sẽ hiểu biết sâu hơn về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại kết hợp với thực tế tại đơn vị thực tập từ đó thấy được sự gắn kết cũng như điểm khác biệt giữa lý luận và thực tiễn, điều này sẽ tạo thuận lợi cho em trong công việc sau này.
Với những lý do trên, trong quá trình thực tập khảo sát thực tế tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, em rất quan tâm đến hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Là một sinh viên sắp tốt nghiệp trong giai đoạn này của đất nước, với những kiến thức đã được học tập tại trường và mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay trong hoạt động này của ngành ngân hàng. Vì vậy, đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội” được lựa chọn làm khóa luận tốt nghiệp.
77 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại nhà Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu và rộng hậu WTO, lại bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngành Ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức. Nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng đang là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính nói chung và của các Ngân hàng nói riêng.
Năm 2008 là một năm đầy sóng gió đối với nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Những khó khăn này được cụ thể hóa qua cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế ở các quốc gia có nên kinh tế phảt triển. Như một hệ quả khó tránh khỏi, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển chịu những thiệt thòi nhất định, Viêt Nam không nằm ngòai số đó. Những biến động xấu này được tiên đoán sẽ còn tiếp diễn ít nhất đến cuối năm 2009, đầu năm 2010
Trong mấy năm gần đây, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng tuy đạt được những kết quả đáng kể nhưng vẫn còn hạn chế và gặp không ít các khó khăn trở ngại. Những gì làm được hôm nay còn nhỏ bé so với những đòi hỏi bức thiết ngày càng tăng về vốn cố định của các doanh nghiệp.
Nghiên cứu về vấn đề này em mong muốn sẽ hiểu biết sâu hơn về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại kết hợp với thực tế tại đơn vị thực tập từ đó thấy được sự gắn kết cũng như điểm khác biệt giữa lý luận và thực tiễn, điều này sẽ tạo thuận lợi cho em trong công việc sau này.
Với những lý do trên, trong quá trình thực tập khảo sát thực tế tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, em rất quan tâm đến hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Là một sinh viên sắp tốt nghiệp trong giai đoạn này của đất nước, với những kiến thức đã được học tập tại trường và mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay trong hoạt động này của ngành ngân hàng. Vì vậy, đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội” được lựa chọn làm khóa luận tốt nghiệp.
Kết cấu khóa luận:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà HN
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, đánh giá, nhận xét từ phía ngân hàng và cô giáo đề em có thể hoàn thành tốt chuyên đề của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội 4/2009
Sinh viên
Lê Phương Thảo
Chương 1:Một số vấn đề chung về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại
1.1. Tổng quan về Ngân hàng Thương mại
1.1.1. Khái niệm và vai trò Ngân hàng Thương mại
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng, thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cho vay, cung ứng các dịch vụ thanh toán và các hoạt động khác có liên quan.
Khác với các tổ chức kinh doanh khác, mặc dù cùng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận nhưng đối tượng kinh doanh của Ngân hàng thương mại là tiền tệ, trong đó hoạt động chủ yếu là huy động tiền gửi trong dân cư và các tổ chức kinh tế để cho vay.
Trên thế giới, có nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại:
Ở Hoa Kỳ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Việt Nam, theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam, khoản 2 điều 20: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động của Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”
Từ những định nghĩa trên về Ngân hàng có thể rút ra được Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp giao dịch trực tiếp với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân thông qua nghiệp vụ tiền gửi, tiền tiết kiệm rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng trên
Ngoài ra, Ngân hàng thương mại còn thực hiện một loạt các hoạt động khác như: kinh doanh ngoại hối, tham gia thị trường chứng khoán, góp vốn mua cổ phần, đầu tư mua trái phiếu, kỳ phiếu và các chứng từ có giá khác, cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ quỹ két, dịch vụ thanh toán…
1.1.1.2. Vai trò của Ngân hàng Thương mại
*Cung cấp nhu cầu vay vốn cho sự phát triển kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và có mức độ tiêu dùng hợp lý. Để tăng thu nhập quốc dân tức là cần phải mở rộng chiều rộng lẫn chiều sâu của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế và muốn làm được điều đó cần thiết phải có vốn. Mặt khác khi nền kinh tế càng phát triển sẽ càng tạo ra nhiều nguồn vốn, điều đó sẽ tác động tích cực đến hoạt động ngân hàng. Ngân hàng thương mại là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế như: vốn tạm thời được giải phóng ra từ quá trình sản xuất, vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Bằng vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình táu sản xuất. Có thể nói Ngân hàng thương mại, với chức năng trung gian tín dụng của mình đã biến tiết kiệm thành đầu tư.
* Nâng cao hiệu quả kinh tế:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trượng, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải dựa trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường trên mọi phương diện: giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa mà còn đòi hỏi thỏa mãn cả trên phương diện thời gian, địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán…mà còn phải tìm tòi sử dụng nguyên liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp….Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư, nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó, để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu tư của mình. Bằng vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại sẽ cung cấp vống cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại bà đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất,cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. Có thể nói, ngân hàng là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung ứng cho doanh nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, góp phần làm cho quái trình sản xuất của doanh nghiệp diễn ra liên tục, không bị đứt quãng và từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong kinh doanh.
* Tham gia vào vào sự ổn định và phát triển thị trường tài chính và thị trường chứng khoán
NHTM là tổ chức quan trọng nhất trong Thị trường tài chính:
NHTM là một tổ chức trung gian tài chính có vai trò quan trọng nhất trong tài chính gián tiếp, có khả năng chi phối hoạt động của hệ thống tài chính. Vị trí của nó trong hệ thống tài chính được thể hiện qua 2 biểu hiện chủ yếu sau:
NHTM là loại trung gian tài chính có số lượng lớn nhất trong hệ thống các tổ chức trung gian tài chính và thực hiện phần lớn hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính nói chung
NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng đầy đủ lợi ích của hệ thống tài chính.
NHTM có thể cho phép tiết kiệm được chi phí giao dịch đối với những nhà cho vay và đi vay. Những người có món tiền tiết kiệm nhỏ khi mua các chứng khoán phải tốn chi phí để tập hợp thông tin cho việc mua chứng khoán nào là có lợi nhất, chi phí giao dịch của việc mua chứng khoán cũng có thể rất cao. Đối với người đi vay trên thị trường tài chính cũng chịu chi phí giao dịch rất cao. Sự có mặt của ngân hàng thương mại đã phần nào giải quyết được tình hình trên. NHTM là tổ chức thường xuyên nhận tiền gửi và cho vay do đó chi phí giao dịch cho mỗi khoản vay giảm đi rất nhiều. Số tiền ngân hàng tập hợp được sẽ dùng để đầu tư kiếm lời, đảm bảo khả năng thanh toán cho các nhà đầy tư và mở rộng khả năng cung các dịch vụ cho nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại góp phần điều hòa cung cầu, ổn định thị trường chứng khoán
Vai trò này của NHTM được thể hiện một cách rõ rệt và tích cực thông qua các hoạt động:
Điều hòa quan hệ cung cầu chứng khoán: NHTM là chủ thể quan trọng cung cấp hàng hóa cho thị trường chứng khoán, là người tạo thị trường, có thể làm tăng nhu cầu hoặc giảm nhu cầu chứng khoán khi cần thiết. Với cơ chế giao dịch đó, NHTM tham gia điều hòa cung cầu chứng khoán một cách nhanh nhạy.
Khi NHTM tham gia mua bán một khối lượng chứng khoán lớn sẽ làm thay đổi giá trị chứng khoán theo những chiều hướng nhất định. Hơn nữa, NHTM chủ động thay đổi mức tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến thị giá chứng khoán. Bằng những hoạt động này, các NHTM góp phần ổn định thị giá chứng khoán và thị trường chứng khoán
Trợ giúp các công ty niêm yết, ổn định tâm lý của nhà đầu tư chứng khoán: Sự ổn định và phát triển của TTCK phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty niêm yết và tâm lý của công chúng – những người nắm giữ chứng khoán. Các NHTM còn thực hiện việc ổn định TTCK thông qua việc trợ giúp cho các công ty niêm yết khi họ có khó khăn về tài chính, đảm bảo khả năng thanh toán, tự chủ của họ trên thị trường.
NHTM có thể đảm bảo cung cấp các thông tin chính xác, hạn chế những hiện tượng lừa đảo trong kinh doanh chứng khoán
NHTM góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện nguyên tắc công khai và công bằng thông qua chức năng kiểm soát. Các hành vi buôn bán tay trong, đầu cơ bất chính sẽ được phát hiện và hạn chế khi có sự tham gia của NHTM vào hoạt động của TTCK
* NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế:
Trong nền kinh tế thị trường, khi mà các mối quan hệ hành hóa tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Vì vậy, nền tài chính của mỗi nước cũng phải hòa nhập với nền tài chính quốc tế và ngân hàng thương mại cùng các hoạt động kinh doanh của mình đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hòa nhập này. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại nước ngoài, hệ thống ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
Ngân hàng thương mại ra đời, phát triển trên cơ sở nền sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển và nền kinh tế càng ngày càng cần đến hoạt động của ngân hàng thương mại với các chức năng, vai trò của mình. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình, nhất là chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đã trở thành một bộ phận quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
* Tham gia kiểm soát các hoạt động kinh tế:
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại một mặt góp phần hình thành, duy trì và phát triển theo một cơ cấu ngành và khu vực nhất định, đồng thời góp phần điều chỉnh ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát triển mất cân đối hoặc khi cần có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường.
Mặt khác, trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại hoạt động một cách có hiệu quả thông qua nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về Ngân hàng Trung ương. Để thực thi chính sách tiền tệ phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, thị trường mở…chính các ngân hàng thương mại là các chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. Bởi vì hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại gắn chặt với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Mặc khác cũng qua ngân hàng thương mại và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt,lãi suất, tỷ giá…của nền kinh tế được phản hồi về cho Ngân hàng trung ương, để chính phủ và Ngân hàng trung ương có những chính sách điều tiết phù hợp với từng tình hình cụ thể.
Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng thương mại trong hệ thống, các ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô:”Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”
1.1.2. Khái quát hoạt động của Ngân hàng Thương mại:
1.1.2.1. Nguồn vốn và nghiệp vụ nguồn vốn của NHTM:
Vốn tự có
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Do tính chất thường xuyên và ổn định nên vốn tự có có thể được ngân hàng sử dụng vào các mục đích khác nhau như: trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, tham gia đầu tư, góp vốn…Mặt khác vốn tự có còn là một trong những căn cứ quyết định khả năng và khối lượng huy động vốn của Ngân hàng do nó được coi như là tài sản gây lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp thua lỗ.
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn tự có nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vốn tự có bổ sung bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư và phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khác….ngoài ra còn có các quỹ không hình thành từ lợi nhuận ngân hàng như quỹ khấu hao cơ bản tài sản cố định, quỹ khấu hao sữa chữa lớn, các quỹ khác theo quy định của pháp luật tài chính.
Vốn tiền gửi của khách hàng:
Trong tổng nguồn vốn hoạt động, vốn tiền gửi là vốn chủ yếu của ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn tiền gửi gồm có: tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi thanh toán được doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Khi mở tài khoản tiền gửi thanh toán, chủ tài khoản được hưởng dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp, thay vài đó lãi suất của khoản tiền này rất thấp. Chính vì thế, đây là nguồn vốn thấp hơn cả trong các loại tiền gửi
Tiền gửi tiết kiệm lại gồm: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn tương đối ổn định nên ngân hàng có thể chủ động sử dụng chúng để cho vay ngắn, trung và dài hạn. Tiền gửi không kỳ hạn tuy biến động thường xuyên nhưng nó vẫn có được một số dư ổn định do số tiền gửi vào và rút ra trong một thời kỳ bù trừ cho nhau nên ngân hàng ngoài việc sử dụng cho vay ngắn hạn còn có thể cho vay trung hạn
Nguồn vốn đi vay:
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn phải vay mượn thêm khi có những tình huống phát sinh đặc biệt như để đảm bảo khả năng thanh khoản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định, để đáp ứng nhu cầu tín dụng. Tùy từng trường hợp cụ thể mà NHTM có thể vay NHNN, vay của tổ chức tín dụng khác hay vay của dân cư, các tổ chức kinh tế thông qua việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu.
Nguồn vốn tiếp nhận:
Những nguồn vốn mà ngân hàng thương mại ủy thác từ các tổ chức trong hoặc ngoài nước từ ngân sách nhà nước để cho vay trung, dài hạn thuộc kế hoạch xây dựng cơ bản tập trung của nhà nước, để thực hiện những dự án có mục tiêu định trước trong sản xuất kinh doanh.
Các nguồn khác:
Vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng như khi làm đại lý, dịch vụ thanh toán, làm trung gian thanh toán…
1.1.2.2.Nghiệp vụ tài sản Có
Là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng các nguồn vốn hình thành của ngân hàng vào các mục đích nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM. Nội dung của nghiệp vụ này bao gồm:
Thiết lập dự trữ:
Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kiếm lời. Song cần phải bảo đảm an toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có được sự tin cậy về phía khách hàng, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán làm sao để đáp ứng được các nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy, các ngân hàng phải để dành một phần nguồn vốn, không sử dụng nó, để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn để dành này gọi là dự trữ.
Tiền mặt tại quỹ: có khả năng thanh toán kịp thời nhất. Ngân hàng thương mại phải để tại quỹ của mình một số tiền phòng hộ theo một tỷ lệ nhất định trên tiền gửi của khách hàng để đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc rút tiền mặt của khách hàng trong ngày.
Tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương: theo quy định, Ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tại ngân hàng trung ương và gửi vào đó một số tiền nhất định gồm 2 phần:
Phần tối thiểu theo quy định của Ngân hàng Trung ương về tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Ngân hàng trung ương được phép ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong từng thời kỳ nhất định. Việc trả lãi cho tiền gửi dự trữ bặt buộc do chính phủ quy định.
Phần còn lại dùng để giao hoán séc và thanh toán nợ với các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại khác.
Tiền gửi của Ngân hàng Thương mại phải mở tài khoản tại Ngân hàng Trung ương biến động hàng ngày vì mỗi ngày Ngân hàng Thương mại đều có nộp hay rút tiền mặt, đổi séc tại phòng giao hoán. Tuy nhiên, Ngân hàng Thương mại phải duy trì đủ tỷ lệ dự trữ bắt buộc nếu thiếu sẽ bị phạt, nếu thừa sẽ gây lãng phí. Mục đích của việc hình thành tỷ lệ này là bảo đảm hoàn trả tiền gửi của khách hàng khi ngân hàng thương mại bị phá sản.
Tiền gửi của ngân hàng thương mại tại các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chuyển tiền khác địa phương của khách hàng, số này cao hay thấp tùy theo mức độ quan hệ với đại lý và số lượng đại lý.
Tiền đầu tư vào các chứng phiếu có giá trị, những chứng phiếu này có thể bán ra bất cứ lúc nào trên thị trường chứng khoán. Hoạt động này vừa tạo ra sự an toàn vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thương mại.
Nghiệp vụ tín dụng:
Nghiệp vụ tín dụng gồm có:
Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác
Đây là nghiệp vụ cho vay gián tiếp mà ngân hàng sẽ cung ứng vốn tín dụng cho một chủ thể và chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng, là việc ngân hàng mua thương phiếu của khách hàng, đây phải là những thương phiếu còn trong thời hạn hiệu lực, người sở hữu những thương phiếu đó khi bán cho ngân hàng sẽ nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ cho lợi tức chiết khấu do ngân hàng quy định.
Cho vay
Trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại thì hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất, nó chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản và nó cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho các ngân hàng thương m