Khóa luận Nội dung và ý nghĩa của chế độ bhxh

Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại . Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó,người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống của con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn.Điều đó cho thấy việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế khong phải lúc nào cuộc sống của con người cũng đầy đủ và thuận lợi mà đôi khi họ phải chịu không ít những khó khăn và bất lợi do điều kiện khách quan và tác động vào như: tai nạn lao động, những rủi ro từ thiên tai, mất khả năng lao động khi tuổi già .Từ đó buộc con người phải nghĩ đến việc sẽ phải làm gì để đảm bảo sự ổn định cho cuộc sống của họ ngay cả khi những rủi ro trên xảy ra hoặc không xảy ra . Mặt khác khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, do việc thuê mướn công nhân trở nên phổ biến đã phát sinh ra khá nhiều những vấn đề có liên quan tới việc trả công và nhu cầu cần được đảm bảo một khoản thu nhập nhất định để người lao động trang trải khi không may ốm, tai nạn, thai sản ,gây ra không ít những mâu thuẫn giữa chủ và thợ , những mâu thuẫn này đã có tác động khá lớn tới đời sống kinh tế xã hội . Do vậy buộc nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn bằng cách buộc cả giới chủ lẫn thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra với người làm thuê, số tiền đóng của cả chủ lẫn thợ hình thành một quĩ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia .Quĩ này còn được bổ sung từ NSNN nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Bên cạnh đó , giới chủ thấy mình có lợi và sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường và tránh được những xáo trộn không cần thiết. Tất cả những hoạt động và mối quan hệ ràng buộc trên và ý nghĩa của nó đối với con người và xã hội được thế giới quan niệm là Bảo Hiểm Xã Hội đối với người lao động .Đồng thời đó cũng chính là tiêu đề mà em chọn cho tiểu luận của mình: "Nội Dung Và ý Nghĩa của chế độ BHXH”.Do trình độ và sự hiểu biết về BHXHcủa em còn hạn chế nên trong quá trình phân tích và trình bầy không tránh khỏi những thiếu sót . Em rất mong sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của thầy cô .Em xin chân thành cảm ơn.

docx27 trang | Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 1762 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nội dung và ý nghĩa của chế độ bhxh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại . Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó,người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống của con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn.Điều đó cho thấy việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế khong phải lúc nào cuộc sống của con người cũng đầy đủ và thuận lợi mà đôi khi họ phải chịu không ít những khó khăn và bất lợi do điều kiện khách quan và tác động vào như: tai nạn lao động, những rủi ro từ thiên tai, mất khả năng lao động khi tuổi già….Từ đó buộc con người phải nghĩ đến việc sẽ phải làm gì để đảm bảo sự ổn định cho cuộc sống của họ ngay cả khi những rủi ro trên xảy ra hoặc không xảy ra . Mặt khác khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, do việc thuê mướn công nhân trở nên phổ biến đã phát sinh ra khá nhiều những vấn đề có liên quan tới việc trả công và nhu cầu cần được đảm bảo một khoản thu nhập nhất định để người lao động trang trải khi không may ốm, tai nạn, thai sản…,gây ra không ít những mâu thuẫn giữa chủ và thợ , những mâu thuẫn này đã có tác động khá lớn tới đời sống kinh tế xã hội . Do vậy buộc nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn bằng cách buộc cả giới chủ lẫn thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra với người làm thuê, số tiền đóng của cả chủ lẫn thợ hình thành một quĩ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia .Quĩ này còn được bổ sung từ NSNN nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Bên cạnh đó , giới chủ thấy mình có lợi và sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường và tránh được những xáo trộn không cần thiết. Tất cả những hoạt động và mối quan hệ ràng buộc trên và ý nghĩa của nó đối với con người và xã hội được thế giới quan niệm là Bảo Hiểm Xã Hội đối với người lao động .Đồng thời đó cũng chính là tiêu đề mà em chọn cho tiểu luận của mình: "Nội Dung Và ý Nghĩa của chế độ BHXH”.Do trình độ và sự hiểu biết về BHXHcủa em còn hạn chế nên trong quá trình phân tích và trình bầy không tránh khỏi những thiếu sót . Em rất mong sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của thầy cô .Em xin chân thành cảm ơn. B. NỘI DUNG I. MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI : 1.Khái niệm về BHXH: Ra đời vào giữa thế kỷ 14, hệ thống BHXH lần đầu tiên là công trình của chính phủ Đức dưới thời Bismask (1883-1889) với cơ chế 3 bên (Nhà nước-giới chủ-giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao động khi họ gặp rủi ro. Sau đó, trước ý nghĩa to lớn của BHXH trong quan hệ lao động, nhiều nước đã bắt đầu áp dụng hệ thống BHXH và BHXH thực sự trở thành một chính sánh xã hội lớn ở VN đó là vào năm 1962 trở lại đây.BHXH ra đời đã giúp người lao động dàn trải được những khó khăn do ốm đau, tai nạn…trên cơ sở những cam kết đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động cho một bên thứ 3 (Cơ quan bảo hiểm trước khi xảy ra những biến cố đó Như vậy xét dưới góc độ kinh tế, BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự đảm bảo thu nhập nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi mất hoặc giảm khả năng lao động . Còn nếu xét dưới góc độ pháp lý , chế độ BHXH là tổng hợp những qui định của nhà nước, qui định các hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần cho người lao động và các thành viên gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động. 2.Tính chất của BHXH: BHXH gắn liền với đời sống của người lao động , vì vậy nó có một số tính chất cơ bản sau: 2.1.Tính tất yếu khách quan : Trong quá trình lao động và sản xuất, người lao động có thể gặp nhiều biến cố rủi ro như: tai nạn, đau ốm, thiên tai…Những biến cố đó đồng thời đẩy người sử dụng lao động cùng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như: thiếu nguồn nhân lực, sản xuất kinh doanh bị gián đoạn…Sản xuất càng phát triển, nguy cơ rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng càng lớn và trở nên phức tạp dẫn đến sự mâu thuẫn trong mối quan hệ chủ-thợ ngày càng căng thẳng. Để điều hoà và giải quyết mâu thuẫn này, nhà nước đã đứng ra can thiệp thông qua BHXH, do vậy sự ra đời của BHXHlà cần thiết, là một điều tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước. 2.2.BHXHcó tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian: Để tạo ra giá trị cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình, con người tác động vào tư nhiên làm ra sản phẩm, nhưng đồng thời con người cũng phải chịu những qui luật khách quan của điều kiện tự nhiên và xã hội, những tác động này thường diễn ra một cách ngẫu nhiên mà con người không thể dự đoán một cách đâỳ đủ. Điều này được thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH, từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quĩ BHXH. 2.3.BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ: Bên cạnh tính tất yếu khách quan, tính ngẫu nhiên, BHXH còn có tính chất kinh tế ,tính xã hội, và tính dịch vụ rất rõ ràng.Trước hết về tính kinh tế được thẻ hiện ở quĩ BHXH, nó là sự đóng góp của các bên tham gia được đặt dưới cơ chế rất chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Quĩ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao động theo các điều kiện của BHXH, trên thực tế phần góp của mỗi người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro, còn đối với người sử dụng lao động thì họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động, mà vẫn đảm bảo được quá trình sản xuất kinh doanh. Và với nhà nước BHXH góp phần làm giảm ghánh nặng cho ngân sách đồng thời còn là một nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Mặt khác đối với xã hội, BHXH là một nhân tố quan trọng trong việc điều hoà và giải quýêt mâu thuẫn chủ-thợ, đồng thời trong mô lớn, lại được hình thành tập trung trên phạm vi quốc gia nên BHXH mang tính dịch vụ rất lớn. Tất cả những điều đó đều cho thấy sự cần, tầm quan trọng của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước trên phạm vi toàn cầu. II.NỘI DUNG CỦA CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM: 1.Các chế độ BHXH được tạo thành bởi các điều kiện BHXH cùng với các mức trợ cấp bảo hiểm: Về nguyên tắc, BHXH phải đảm bảo an toàn kinh tế cho mọi người lao động trong mọi trường hợp giảm hoặc mất khả năng lao động. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội từng quốc gia trong từng giai đoạn mà các chế độ BHXH được qui định khác nhau Ơ nước ta hiện nay thực hiện một số các chế độ BHXH sau: Chế độ trợ cấp ốm đau Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghệ nghiệp Chế độ trợ cấp thai sản Chế độ hưu trí Chế độ tử tuất Ngoài ra, những đối tượng đã giải quyết chế độ mất sức lao động, đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo các qui định cũ vẫn tiếp tục được hưởng và chế độ bảo hiểm thất nghiệp đang được xây dựng, bước đầu đã được qui định trong Bộ luật lao động sữa đổi 2002 Các chế độ bảo hiểm nói trên nói trên có một điểm chung là đều được tạo thành bởi các điều kiện BHXH và mức trợ cấp BHXH. 2.Đối tượng của BHXH và đối tượng tham gia BHXH: BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu âu.Từ năm1883,ở nước Phổ (CHLB Đức ngày nay) đã ban hành luật BHYT. Một số nước Châu âu và Bắc mỹ mãi đến cuối năm 1920 mới có đạo luật về BHXH. Tuy ra đời từ lâu như vậy, nhưng đối tượng của BHXH vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất, đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH với đối tượng tham gia BHXH. Do vậy ta cần phải phân biệt được 1cách rõ ràng giữa 2 khái niệm này. 2.1.Đối tượng của BHXH: Như chúng ta đã biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu…Do vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH. Mà mức thu nhập được bảo hiểm chính là mức tiền lương hoặc một mức thu nhập bằng tiền nào đó do nhà nước qui định trên cơ sở mức sống, mức thu nhập bình quân thực tế của người lao động theo 2 cách lựa chọn. Cách thứ nhất là áp dụng một mức đồng nhất đối với mọi người được bảo hiểm. Cách thứ hai là lấy tiền lương làm cơ sở để qui định mức thu nhập được bảo hiểm. Mỗi cách đều có những tác dụng như nhau, nhưng thông thường người ta láy tiền lương làm căn cứ để xác định mức thu nhập được bảo hiểm. Mặt khác đối tượng BHXH hay mức thu nhập được bảo hiểm là công cụ để nhầ nước giám sát , kiểm tra, điều tiết trên giác độ quản lý vĩ mô đối với BHXH và quản lý lao động trong nền kinh tế quốc dân. 2.2.Đối tượng tham gia BHXH: Đối tượng tham gia quan hệ BHXH gồm có: người thực hiện bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm. T uy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. Vào những năm đất nước ta bắt đầu có sự đổi mới trong cơ chế quản lý: từ một kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN đã đánh dấu bước phát triển mới sự nghiệp BHXH ở nước ta đó là: về phạm vi, đối tượng tham gia BHXH đã được mở rộng từ chỗ trước đây chỉ áp dụng cho cán bộ, công nhân, quân nhân làm việc trong khu vực nhà nước và lực lượng vũ trang nay đã được mở rộng ra các đối tượng người làm công hưởng lương ở các đơn vị, tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế. Và đồng thời có sự sửa đổi, bổ xung ở điều 3 trong số 12/CP tháng 1/1995 của Chính Phủ :’’ đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng kjhông xác định thời hạn trong các DN, cơ quan, tổ chức đều phải đóng BHXH’’ Các thành viên tham gia quan hệ BHXH có mối mối quan hệ mật thiết với nhau. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên được đặt trong mối quan hệ thống nhất với nhau. Song, cũng như bất cứ một quan hệ pháp luật nào, trong quá trình phát sinh, tồn tại của quan hệ BHXH giữa các chủ thể không tránh khỏi sự bất đồng với nhau dẫn đến tranh chấp. Nếu sự tranh chấp giữa người lao động với người sử dụng lao động thì giải quyết theo qui định về giải quyết tranh chấp lao động. Nếu tranh chấp giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan BHXH thì giả quyết theo qui chế của tổ chức BHXH. Và mối quan hệ có sự ràng buộc lẫn nhau này cũng chính là đặc trưng riêng của BHXH. Nó quyết định sự tồn tại, hoạt động và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững. 3.Các điều kiện hưởng BHXH và mức trợ cấp BHXH: 3.1.Các điều kiện hưởng BHXH: Điều kiện BHXH là cơ sở pháp lý để được hưởng BHXH. Các điều kiện BHXH có vai trò quan trọng trong hệ thống BHXH, nó không chỉ là cơ sở pháp lý để hưởng BHXH, mà còn là công cụ điều tiết của nhà nước để đảm bảo cho phù hợp giữa các chế độ BHXH, giữa người lao động và người không lao động hưởng BHXH. Hệ thống các điều kiện BHXH gồm: tuổi đời, mức độ suy giảm hoặc mất khả năng lao động, và thời gian tham gia BHXH trong đó chế độ hưu trí và chế độ mất sức lao động được coi là những điều kiện chủ yếu và hết sức quan trọng . 3.2.Mức trợ cấp: Trợ cấp BHXH là số tiền mà người lao động nhận được từ cơ quan BHXH hoặc thêm vào phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm do mất khả năng lao động . Trợ cấp BHXH có 2 loại: trợ cấp thường xuyên và trợ cấp một lần. Và cơ sở để xác định mức trợ cấp BHXH được xây dựng dựa trên cơ sở mức sống dân cư và mức lương tối thiểu , các thang ,bảng trợ cấp BHXH được xây dựng dựa trên thời gian công tác, mức độ suy giảm khả năng lao động. Trong đó, khống chế mức trợ cấp hưu trí và mất sức lao động tối đa và tối thiểu.Trên những cơ sở này, mức trợ cấp cụ thể của từng người được huởng, được tính toán xác định bằng một tỷ lệ so với mức tiền lương cá nhân. 4.Quĩ BHXH và cơ chế quản lý: *Về Quĩ BHXH: Quĩ BHXH được huy động trên cơ sở trích nộp theo tỷ lệ phần trăm so với tổng quĩ lương của cơ quan xí nghiệp vào NSNN, ở các đơn vị hành chính sự nghiệp, phần trích nộp này do nhà nước đảm nhiệm, còn ở các đơn vị kinh doanh phần này được tính vào giá thành sản phẩm.Như vậy, cá nhân, công nhân viên chức không phải đóng góp gì cho quĩ này. Về tính chất quĩ BHXH không chỉ là một quĩ an toàn về tài chính nhằm đối phó với những rủi ro mang tính ngẫu nhiên hoặc mất khả năng lao động, mà quĩ BHXH còn là một quĩ tiêu dùng, là bộ phận cấu thành của hệ thống phân phối thu nhập quốc dân, làm nhiệm vụ phân phối hoặc phân phối lại thu nhập cho người lao động. Là một quĩ tích luỹ đồng thời đồng thời là quĩ tiêu dùng trên cơ sở tuân theo qui luật phân phối theo lao động, ở một mức độ nhất định theo nguyên tắc tương đương, đồng thời phải tham gia điều chỉnh cần thiết giữa nhu cầu và lợi ích. *Về cơ chế quản lý : Khi mới ban hành điều lệ, quĩ BHXH và nói chung toàn bộ sự nghiệp BHXH do công đoàn quản lý.Nhưng theo cơ chế mới trong nghị định số 43/CP của chính phủ ra ngày 22/6/1993 qui định quĩ BHXH là quĩ độc lập,. Tập trung nằm ngoài NSNN do: người sử dụng lao động góp 15% quĩ lương, người lao động góp 5% tiền lương, trợ cấp của nhà nước, ngoài ra còn dược bổ xung thêm phần lãi suất do đầu tư mang lại và cá tổ chức quốc tế, các nhà hảo tâm đóng góp . Như vậy, quĩ BHXH là một bộ phận nằm trong NSNN gồm 2 phần do 2 cơ quan quản lý nhưng được thực hiện theo cơ chế chung-cơ chế tập trung bao cấp. Hoạt động của quĩ BHXH thực hiện theo kiểu dư đoán và cấp phát ngân sách theo thực tế phát sinh BHXH giữa phần thu và chi của quĩ luôn không cân đối, bội chi ngày càng lớn và do ngân sách phải cấp bù giữa 2 phần của quĩ do 2 cơ quan quản lý không có quan hệ gì với nhau và không thể điều tiết lẫn cho nhau nên trên thực tế trở thành 2quĩ độc lập. III.CÁC CHẾ ĐỘ BHXH và Ý NGHĨA : Các chế độ BHXH: Hệ thống BHXH ở nước ta hiện nay bao gồm: BHXH đối với công nhân, công nhân viên chức nhà nước và mọi người lao động theo loại hình bắt buộc (được qui định trong nghị định 12/CP ngày 26/1/1995, và BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp , hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an ND (được qui định trong nghị định 45/CP ngày 15/7/1995.Hai hệ thống nói trên về cơ bản có nhiều điểm chung như nguyên tắc thực hiện BHXH, điều kiện căn cứ hưởng BHXH….Tuy nhiên, do lao động cua lực lượng vũ trang là một loại lao động đặc biệt nên pháp luật thường qui định với sự ưu đãi nhất định đối với quyền lợi, chế độ của người lao động thuộc lực lượng vũ trang . Trong hệ thống các chế độ BHXH nước ta hiện nay đang thực hiện gồm các chế độ sau: chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp tan nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ hưu trí; chế độ tử tuất.( Ngoài ra trong bộ luật sữa đổi 2002, bướa đầu đã qui định thêm chế độ bảo hiểm thất nghiệp ) Chế độ trợ cấp ốm đau: Người lao động nghỉ việc vì ốm đau, bị tai nạn rủi ro (không phải tai nạn lao động) được khám bệnh và điều trị tại các cơ sở y tế theo chế độ BHYT và được hưởng trợ cấp ốm đau thay tiền lương nếu có chứng nhận hợp pháp cơ quan y tế có thẩm quyền chế độ trợ cấp ốm đau cũng được áp dụng với lao động nữ có con thứ nhất,thứ hai (kể cả con nuôi theo hợp pháp) hoặc trường hợp đặc biệt có con thứ 3 (theo qui định cua phấp luật) dưới 7 tuổi bị ốm đau có giấy xác nnhận hợp pháp cua cơ quan y tế. Trong một số trường hợp, chế độ này cũng được áp dụng với cả người bố. Chế độ trợ cấp ốm đau không áp dụng đối với những trường hợp nghỉ việc do tự huỷ hoại sứu khoẻ, do đánh nhau, do say rượu …. Thời gian hưởng trợ cấp và mức trợ cấp ốm đau phụ thuộc vào điều kiện làm việc, mức và thời gian đóng phí BHXH. Chế độ trợ cấp tai nạn lao động , bệnh nghề nghiệp : Tai nạn la động là tại nạn làm ảnh hhưởng tới sức khoẻ, tính mạng hoặc l tổn thương bất kì bộ phận, chức năng nào của cơ thể làm người lao động và xảy ra trong quá trình lao động gắn liền với việc tục hiện công việc, nhiệm vụ lao động. Theo một số qui định trước đây, trong một số trường hợp bất khả kháng, tình thế cấp thiết tai nạn xảy ra không liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ lao động cũng được coi là tai nạn lao động (cứu người, cứu tài sản của nhà nước…..). Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do tác động của điều kiện lao động có hại đối với người lao động. Bệnh nghề nghiệp chỉ phát sinh và bắt nguồn từ quá trình làm việc mà thường xuyên phải tiếp xúc với môi trường có yếu tố độc hại của nghề đó.Như vậy không phải bất cứ bệnh nào cũng coi là bệnh nghề nghiệp. Danh mục bệnh nghề nghiệp do Bộ y tế qui định . Người lao động khi bị tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệpđược hưởng trợ cấp bằng 100% tiền lương trong thời gian điều trị và được cấp chi phí khám, chữa bệnh. Sau thời gian điều trị, khi thương tật ổn định, người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định y khoa có thẩm quyền. Tuỳ theo mức độ suy giảm khả năng lao động mà người lao động được hưởng trợ cấp hàng tháng. Đối với người lao bị tai nạn lao động, bẹnh nghề nghiệp mà bị tổn thương các chức năng hoặt động của cơ thể(chân, tay, mắt…)được cấp một lần các phương tiện trợ giúp cho sinh hoạt phù hợp với các tổn thất của cơ quan chức năng. Khi vết thương tái phát, nngười lao động được chữa trị và giám định lại thương tật. Người lao động chết khi xảy ra tai nạn lao động hoặc do bệnh nghề nghiệp thì gia đình đựoc hươngr chế độ tử tuất và được trợ cấp thêm một lần trên cơ sở số tiền lương tối thiểu theo qui định của pháp luật. 1.3.Chế độ trơ cấp thai sản : Lao động nữ là một loại lao động đặc thù, bởi vì người phụ nữ ngoài việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ lao động, họ còn đảm nhận một chức năng không ai thay thế là sinh đẻ và nuôi con. Do đó, khi sử dụng lao đọng nữ, bên cạnh việc tuân thủ các qui địng chung về sử dụng lao động. Pháp luật còn có những qui định riêng để sử dụng lao động phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của người phụ nữ. Trong lĩnh vực BHXH, các chế độ đối với lao động nữ khi thai sản nhằm trợ giúp, bổ xung sự thăng băng trong thu nhập và đảm bảo sức khoẻ cho người phụ nữ khi chức năng làm mẹ. Chế độ trợ cấp thai sản áp dụng cho người lao động nữ sinh con thứ nhất thư hai. Nội dung chế độ thai sản bao gồm: thời gian nghỉ trước và sau khi sinh con, thời gian nghỉ đi khám thai, sẩy, nạo thai, thời gian đối với người nuôi con hợp pháp, thời gian nghỉ theo thoả thuận. Trong toàn bộ thời gian nghỉ nói trên, người lao động nữ được hưởng trợ cấp bằng 100% tiền lương (trừ thời gian nghỉ theo thoả thuận). 1.4.Chế độ hưu trí : Người lao động tham gia quan hệ lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng khi họ đạt đến một độ tuổi nhất định và với thời gian tham gia BHXH theo qui định của pháp luật. Độ tuổi hưu trí và độ dài thời gian tham gia bảo hiểm để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng được pháp luật qui định khác nhau dựa trên cỏ sở của điều kiện và mức độ lao động. Chế độ đối với người hưởng trợ cấp hưu trí hàng tháng bao gồm: trợ cấp hưu trí một lần trước khi nghỉ hưu và lương hưu hàng tháng. Mức trợ cấp cũng như mức lương hưu pháp luật qui định dựa trên cơ sở thời gian tham gia BHXH. Đối với người lao động không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí hàng tháng, nếu có đủ diều kiện theo qui định của pháp luật sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí một lần . 1.5.Chế độ tử tuất: Chế độ này áp dụng đối với người lao động đang tham gia quan hệ lao động cũng như những người lao động đã chấm dứt quan hệ lao động nhưng đang hưởng trợ cấp BHXH mà bị chết. Nội dung chế độ này bao gồm chế độ mai táng phí và chế độ trợ cấp tiền tuất. Chế độ mai táng phí là khoản là khoản trợ cấp cho người lo việc chôn cất, mai táng cho người chết. Mức độ trợ cấp do pháp luật qui định. Chế độ trợ cấp tiền tuất là chế độ áp dụng cho nhân thân, gia đình người lao động bị chết khi họ có một khoảng thời gian nhất định tham gia BHXH. Tuỳ theo nguyê
Tài liệu liên quan