Khóa luận Thặng dư và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế - Các biện pháp điều chỉnh của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam, đều thực hiện chính sách kinh tế thị trường mở cửa. Chính điều này đã tạo cho quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, giao lưu vốn đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng phát triển, đồng thời tác động trực tiếp vào nền kinh tế của mỗi nước. Từ đó, kinh tế đối ngoại dần dần đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nó còn có những tác động xấu đến nền kinh tế trong nước. Chính vì vậy, vấn đề quản lý kinh tế đối ngoại trở nên vô cùng quan trọng, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển vững mạnh và hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực có thể xảy ra. Để có thể đề ra các chính sách quản lý kinh tế đối ngoại, các chính sách phát triển kinh tế có hiệu quả, các nhà hoạch định chính sách luôn quan tâm đặc biệt đến những diễn biến trong các cân thanh toán quốc tế vì nó phản ánh toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên, để lập được một bảng cán cân thanh toán đầy đủ, chính xác và kịp thời là một việc khó khăn do phạm vi thu nhập số liệu khá rộng. Mặc dù số liệu cán cân thanh toán được thu thập bằng các phương pháp và kỹ thuật mẫu đáng tin cậy, nhưng do nguồn cung cấp thông tin quá đa dạng nên số liệu thống kê cuối cùng chỉ là con số ước tính về giá trị cán cân thanh toán quốc tế thực. Đồng thời để có thể phân tích, đánh giá được những diễn biến trong cán cân thanh toán và đưa ra các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán có hiệu quả cũng là một việc rất khó. Thêm vào đó, đối với Việt Nam, việc thiết lập cán cân thanh toán quốc tế mới chỉ chính thức bắt đầu từ năm 1990 cho nên vẫn còn nhiều hạn chế trong việc phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán. Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có sự nghiên cứu một cách sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn trong việc thiết lập, phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, từ đó đưa ra các biện pháp điều chỉnh phù hợp với mục tiêu và hoàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam. Trên cơ sở những kiến thức lý luận được học tại Học viện Ngân hàng cũng như qua nghiên cứu tài liệu về cán cân thanh toán quốc tế, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Thặng dư và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế - Các biện pháp điều chỉnh của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” cho khoá luận của mình.

doc93 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1706 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thặng dư và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế - Các biện pháp điều chỉnh của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LờI Mở ĐầU Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam, đều thực hiện chính sách kinh tế thị trường mở cửa. Chính điều này đã tạo cho quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, giao lưu vốn đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng phát triển, đồng thời tác động trực tiếp vào nền kinh tế của mỗi nước. Từ đó, kinh tế đối ngoại dần dần đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực nó còn có những tác động xấu đến nền kinh tế trong nước. Chính vì vậy, vấn đề quản lý kinh tế đối ngoại trở nên vô cùng quan trọng, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển vững mạnh và hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực có thể xảy ra. Để có thể đề ra các chính sách quản lý kinh tế đối ngoại, các chính sách phát triển kinh tế có hiệu quả, các nhà hoạch định chính sách luôn quan tâm đặc biệt đến những diễn biến trong các cân thanh toán quốc tế vì nó phản ánh toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên, để lập được một bảng cán cân thanh toán đầy đủ, chính xác và kịp thời là một việc khó khăn do phạm vi thu nhập số liệu khá rộng. Mặc dù số liệu cán cân thanh toán được thu thập bằng các phương pháp và kỹ thuật mẫu đáng tin cậy, nhưng do nguồn cung cấp thông tin quá đa dạng nên số liệu thống kê cuối cùng chỉ là con số ước tính về giá trị cán cân thanh toán quốc tế thực. Đồng thời để có thể phân tích, đánh giá được những diễn biến trong cán cân thanh toán và đưa ra các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán có hiệu quả cũng là một việc rất khó. Thêm vào đó, đối với Việt Nam, việc thiết lập cán cân thanh toán quốc tế mới chỉ chính thức bắt đầu từ năm 1990 cho nên vẫn còn nhiều hạn chế trong việc phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán. Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có sự nghiên cứu một cách sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn trong việc thiết lập, phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, từ đó đưa ra các biện pháp điều chỉnh phù hợp với mục tiêu và hoàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam. Trên cơ sở những kiến thức lý luận được học tại Học viện Ngân hàng cũng như qua nghiên cứu tài liệu về cán cân thanh toán quốc tế, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Thặng dư và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế - Các biện pháp điều chỉnh của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” cho khoá luận của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài - Phân tích cơ sở lý luận của việc xác định thặng dư hay thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế và việc điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế. - Phân tích thực trạng cán cân thanh toán quốc tế và việc điều chỉnh tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1990 đến nay. - Trên cơ sở các phân tích trên đề ra các biện pháp điều chỉnh các cân thanh toán quốc tế của Việt Nam hiện nay. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc thiết lập cán cân thanh toán quốc tế, xác định thặng dư hay thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế và các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm: + Về mặt lý thuyết: Phân tích cơ sở lý luận của việc xây dựng cán cân thanh toán quốc tế, tình trạng thặng dư hay thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế và các cơ chế điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế. + Về mặt thực tiễn: Phân tích thực trạng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1990 đến nay. Từ đó đề ra các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế thích hợp đảm bảo sự phát triển cân đối cả bên trong và bên ngoài của nền kinh tế. Phương pháp nghiên cứu Khoá luận sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp và phân tích, kết hợp những kết quả thống kê với vận dụng lý thuyết để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, khoá luận bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cán cân thanh toán quốc tế và điều chỉnh Chương 2: Thực trạng cán cân thanh toán quốc tế và việc điều chỉnh tại Việt Nam Chương 3: Các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù em đã có nhiều cố gắng để đạt được kết quả nghiên cứu như đã trình bày, song do trình độ có hạn và thiếu kinh nghiệm thực tế nên khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để khoá luận được hoàn thiện và nâng cao hơn nữa. Em cũng xin cảm ơn giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Hồng Hải và các thầy cô giáo trong khoa Tiền tệ – Tín dụng Quốc tế đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận. Chương 1 Những vấn đề cơ bản về cán cân thanh toán quốc tế và điều chỉnh 1.1.Cán cân thanh toán quốc tế 1.1.1.Khái niệm cán cân thanh toán quốc tế Để phục vụ cho việc thiết lập, phân tích và điều chỉnh, theo quan điểm của Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF), cán cân thanh toán quốc tế có thể được định nghĩa như sau: “ Cán cân thanh toán quốc tế là một bản thống kê được tổng hợp một cách có hệ thống các giao dịch kinh tế của một nền kinh tế với phần còn lại của thế giới trong một khoảng thời gian nhất định. Các giao dịch, chủ yếu giữa người cu trú và người không cư trú, bao gồm các giao dịch về hàng hoá, dịch vụ và thu nhập; các giao dịch về các tài sản và các khoản nợ tài chính đối với phần còn lại của thế giới; và các giao dịch (như quà tặng ) được xếp loại chuyển giao, mà đòi hỏi phải có các bút toán bù đắp để cân bằng - theo ý nghĩa kế toán- các giao dịch một chiều. Bản thân một giao dịch được nhìn nhận như một luồng kinh tế phản ánh sự phát sinh, sự biến đổi, sự trao đổi, sự chuyển giao, hay sự thanh toán các giá trị kinh tế và dẫn đến những thay đổi về quyền sở hữu hàng hoá hay các tài sản tài chính, cung cấp các dịch vụ, hay cung cấp lao động và vốn”. Tóm lại, cán cân thanh toán quốc tế của một nước là bản ghi chép có hệ thống tất cả các giao dịch kinh tế giữa những người cư trú của nước lập báo cáo và những người cư trú ở phần còn lại của thế giới trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm). Để nhất quán các nội dung phản ánh vào cán cân thanh toán quốc tế, IMF đã quy định chỉ ghi chép vào cán cân thanh toán của mỗi quốc gia các giao dịch kinh tế giữa “người cư trú” với “người không cư trú” của quốc gia đó. Mọi giao dịch kinh tế giữa người cư trú với nhau của cùng một quốc gia không được phản ánh trong cán cân thanh toán quốc tế. Khi thống kê cán cân thanh toán, việc phân biệt giữa người cư trú và người không cư trú là rất cần thiết do mối quan hệ giữa hệ thống tài khoản quốc gia và cán cân thanh toán. Nhìn chung, khái niệm người cư trú và người không cư trú được hiểu theo luật định của từng quốc gia cụ thể và nó tương đối thống nhất giữa các quốc gia. ở Việt Nam, vấn đề này được quy định rõ trong Nghị định số 164/NĐ-CP ngày 16/11/1999. Người cư trú và người không cư trú ở đây bao gồm các cá nhân, các hộ gia đình, các công ty, các cơ quan đại diện cho các quốc gia, các tổ chức quốc tế... Căn cứ để phân biệt giữa người cư trú và người không cư trú chủ yếu dựa vào khoảng thời gian sinh sống làm việc liên tục cần thiết phải có tại một quốc gia ( thường là một năm trở lên). Về nguyên tắc, tổ chức hoặc người nước ngoài sinh sống và làm việc ở nước sở tại từ một năm trở lên được coi là người cư trú của nước đó. Ngược lại, tổ chức hoặc người của nước sở tại sinh sống và làm việc ở nước ngoài từ một năm trở lên được coi là người không cư trú ở nước đó. Tuy nhiên cũng có những trường hợp đặc biệt như các công dân của nước khác đến học tập, du lịch, chữa bệnh và thăm viếng không kể thời gian dài, ngắn bao nhiêu, đều được coi là người không cư trú (chỉ tạm trú). Ngược lại, các công dân đi học tập, du lịch, chữa bệnh và thăm viếng ở nước ngoài không kể thời gian dài, ngắn vẫn được coi là người cư trú. Đối với các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, lực lượng vũ trang của nước sở tại hoạt động ở nước ngoài cũng vậy, vẫn được coi là người cư trú của nước đó mà không phụ thuộc vào thời gian sinh sống và làm việc tại nước ngoài. Đối với các công ty đa quốc gia có chi nhánh ở nhiều nước sẽ là người cư trú đồng thời tại nhiều quốc gia. Tuy vậy, để tránh trùng lặp thì chi nhánh đặt ở nước nào được coi là người cư trú của nước đó. Còn đối với các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB)... thì không được coi là những người cư trú của quốc gia nơi mà chúng đóng trụ sở. Tức là các tổ chức này được xem như là người không cư trú đối với mọi quốc gia. Do đó, các giao dịch kinh tế của chúng với người cư trú của nước sở tại được ghi chép vào cán cân thanh toán của nước đó. Vậy, giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú bao gồm các giao dịch sau: các giao dịch về hàng hoá và dịch vụ; thu nhập của người lao động; đầu tư trực tiếp; đầu tư chứng khoán như tín phiếu, trái phiếu và cổ phiếu; quan hệ tín dụng; các hình thức đầu tư và các giao dịch khác làm tăng hoặc giảm tài sản có hoặc tài sản nợ giữa người cư trú và người không cư trú; các khoản chuyển giao một chiều. 1.1.2. Nội dung cán cân thanh toán quốc tế Trước đây, mỗi quốc gia biên lập cán cân thanh toán quốc tế theo cách riêng của mình. Mỗi chính phủ thường có cơ quan riêng nhằm thực hiện công việc thống kê liên quan đến cán cân thanh toán. Do không có mẫu và phương pháp thống nhất để thống kê cán cân thanh toán cho nên mỗi quốc gia có phương pháp đo lường và trình bầy cán cân thanh toán khác nhau. Chính vì vậy, để có thể so sánh tình hình cán cân thanh toán giữa các quốc gia với nhau, hiện nay IMF đã công bố một mẫu cán cân thanh toán quốc tế thống nhất cho tất cả các nước thành viên. Theo IMF, cán cân thanh toán quốc tế bao gồm những khoản mục chủ yếu sau: 1.1.2.1.Cán cân vãng lai Cán cân vãng lai còn được gọi là tài khoản vãng lai, là một trong những bộ phận chính hình thành bảng cán cân thanh toán của một nước. Cán cân này phản ánh toàn bộ các giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai một chiều. Do vậy, cán cân vãng lai được chia thành bốn hạng mục chi tiết là: hàng hoá, dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai một chiều. Hạng mục hàng hoá Hạng mục hàng hoá hạch toán các khoản thu, chi về xuất nhập khẩu hàng hoá trong kỳ. Chênh lệch giữa các khoản thu từ xuất khẩu hàng hoá và các khoản chi để nhập khẩu hàng hoá được gọi là cán cân thương mại hay xuất khẩu hàng hoá ròng. Thông thường, đây là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cán cân vãng lai. Hàng hoá ở đây bao gồm: hàng hoá thông thường; hàng hoá gia công, chế biến; hàng nhiên liệu và hàng mua tại cảng; hàng sửa chữa; hàng viện trợ; vàng phi tiền tệ, các kim loại quý và đá quý; hàng quân sự. Giá trị kim ngạch ghi vào cán cân thương mại được đánh giá theo giá FOB nếu là hàng xuất khẩu và theo giá CIF nếu là hàng nhập khẩu. Tỷ giá sử dụng là tỷ giá tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ. Hạng mục dịch vụ Hạng mục dịch vụ hạch toán các khoản thu, chi về xuất nhập khẩu các loại hình dịch vụ. Chênh lệch giữa các khoản thu từ xuất khẩu dịch vụ và các khoản chi để nhập khẩu dịch vụ được gọi là cán cân dịch vụ hay xuất khẩu dịch vụ ròng. Theo IMF, hạng mục dịch vụ có thể phân loại chi tiết như sau: + Dịch vụ vận tải (hàng hải, hàng không...) bao bồm: cước phí thuê các phương tiện chuyên chở có kèm đội lái, cước phí chuyên chở, cước phí thuê kho chứa, bến bãi, bảo hiểm... + Dịch vụ du lịch bao gồm: chi phí đi lại; chi phí thuê khách sạn, nhà nghỉ; chi phí ăn uống, mua sắm và các loại chi phí du lịch khác. + Dịch vụ bảo hiểm + Dịch vụ bưu chính, viễn thông, thông tin và tin học. + Các dịch vụ Tài chính- Ngân hàng + Các dịch vụ xây dựng + Các dịch vụ khác giữa người cư trú và người không cư trú như các giao dịch của các đại sứ quán, các nhà tư vấn, các cơ quan quân sự và quốc phòng; các giao dịch với các cơ quan khác như: phái đoàn viện trợ, các phái đoàn du lịch chính phủ, thông tin và các văn phòng thúc đẩy thương mại; các chi phí bản quyền và giấy phép kinh doanh; các dịch vụ phục vụ cá nhân. Tuỳ theo điều kiện của từng quốc gia mà có thể cán cân thương mại hoặc cán cân dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng doanh số của cán cân vãng lai. Nhưng trong những năm gần đây, doanh số xuất nhập khẩu các loại hình dịch vụ tăng lên nhanh chóng so với doanh số xuất nhập khẩu hàng hoá. Các loại hình dịch vụ có tốc độ tăng trưởng nhanh bao gồm: du lịch, vận tải biển, bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng. Hạng mục thu nhập Hạng mục thu nhập bao gồm: + Thu nhập của người lao động là các khoản thu từ lao động gồm các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền hoặc là bằng hàng hoá do người không cư trú trả cho người cư trú. + Thu nhập đầu tư là các khoản thu từ vốn gồm: các khoản lợi nhuận từ đầu tư trực tiếp; các khoản lãi từ đầu tư vào giấy tờ có giá; thu nhập đầu tư khác như các khoản lãi đến hạn phải trả của các khoản vay (ngắn hạn, dài hạn) giữa người cư trú và người không cư trú. Trong thống kê cán cân thanh toán, thu nhập từ việc cung cấp các tài sản phi tài chính, phi sản xuất như bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu thương mại... được đưa vào hạng mục dịch vụ, không đưa vào phần thu nhập đầu tư. Hạng mục chuyển giao vãng lai một chiều Hạng mục chuyển giao vãng lai một chiều ghi chép các khoản chuyển giao không hoàn lại cho mục đích tiêu dùng do người không cư trú chuyển cho người cư trú và ngược lại. Bao gồm: + Các khoản viện trợ, quà tặng, quà biếu như: quà tặng về thực phẩm, quần áo, thuốc men và hàng hoá tiêu dùng khác của các chính phủ với mục đích cứu trợ; các khoản viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (tổ chức chữ thập đỏ quốc tế) bằng tiền hoặc bằng hàng trợ giúp dưới hình thức kỹ thuật... + Các khoản chuyển giao khác bằng tiền hoặc hiện vật như chuyển tiền của người lao động ở nước ngoài gừi về cho gia đình, tiền lương trả cho cư dân nước ngoài... Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều này phản ánh sự phân phối lại thu nhập giữa người cư trú và người không cư trú. 1.1.2.2. Cán cân vốn và tài chính (loại trừ dự trữ quốc tế) Cán cân vốn và tài chính còn gọi là tài khoản vốn và tài chính. Cán cân này ghi chép các dòng vốn ra và vào của một quốc gia, tức là nó phản ánh sự chuyển dịch tư bản (vốn) của một nước với các nước khác. Các luồng vốn chuyển dịch bao gồm: + Luồng vốn ngắn hạn: là những luồng vốn giao dịch kéo dài dưới 12 tháng. Nó gồm nhiều hạng mục phong phú và chủ yếu là tín dụng thương mại ngắn hạn, tín dụng ngắn hạn của ngân hàng, các hoạt động tiền gửi, mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, kinh doanh ngoại hối... Ngày nay, luồng vốn ngắn hạn có ảnh hưởng đáng kể đến cán cân thanh toán quốc tế nói chung của một quốc gia do các luồng vốn đầu cơ tăng lên nhanh chóng trong môi trường tự do hoá tài chính. + Luồng vốn dài hạn: là những luồng vốn giao dịch kéo dài trên 12 tháng gồm các khoản mua, bán tài sản cố định ở nước ngoài (nhà xưởng, hầm mỏ, đất đai...), mua bán các giấy tờ có giá dài hạn; các khoản đi vay và cho vay dài hạn... + Chuyển giao vốn một chiều: gồm các khoản viện trợ không hoàn lại cho mục đích đầu tư; các khoản nợ được xoá giữa người cư trú và không cư trú; các loại tài sản bằng tiền, hiện vật của người cư trú di cư mang ra nước ngoài và của người không cư trú di cư mang vào trong nước lập báo cáo. Cán cân vốn và tài chính được chia thành cán cân vốn và cán cân tài chính. Cán cân vốn bao gồm hai hạng mục: chuyển giao vốn và các giao dịch về tài sản phi tài chính, phi sản xuất. Căn cứ theo chức năng, cán cân tài chính được chia thành các phần sau đây: đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư vào giấy tờ có giá (như cổ phiếu, trái phiếu dài hạn, trái phiếu ngắn hạn, các công cụ thị trường tiền tệ và các công cụ tài chính phái sinh) và đầu tư khác (gồm những khoản vay nợ dài hạn - trung hạn - ngắn hạn, tín dụng thương mại, các khoản tiền gửi và các tài sản có, tài sản nợ khác. Thông thường, để thuận tiện trong việc theo dõi tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế, người ta tổng hợp cán cân vãng lai với cán cân vốn và tài chính vào một cán cân chung được gọi là cán cân tổng thể. Kết quả của cán cân tổng thể này thể hiện tình trạng kinh tế đối ngoại của một quốc gia trong một thời kỳ (hoặc tại một thời điểm) nhất định. 1.1.2.3. Khoản mục dự trữ chính thức Khoản mục dự trữ chính thức còn được gọi là tài khoản dự trữ chính thức, bao gồm: vàng tiền tệ, ngoại hối, quyền rút vốn đặc biệt, dự trữ tại IMF và tài sản có nước ngoài khác. Khoản mục này phản ánh những thay đổi về các tài sản dự trữ chính thức của một quốc gia. Các tài sản dự trữ chính thức là các tài sản tài chính nước ngoài nằm trong tay các cơ quan quản lý tiền tệ trong nước (Ngân hàng Trung ương - NHTƯ) để tài trợ và điều hoà sự mất cân đối trong cán cân thanh toán. Tức là NHTƯ thường dự trữ một khoản ngoại hối nhất định nhằm điều chỉnh tỷ giá khi tỷ giá có nguy cơ biến đổi ngoài mong muốn. Khi số dư tài khoản vãng lai và tài khoản vốn là âm thì NHTƯ phải rút từ quỹ dự trữ ngoại hối, vay NHTƯ nước ngoài hoặc IMF để bù đắp (ghi dấu dương trong cán cân thanh toán). Và ngược lại, khi số dư tài khoản vãng lai và tài khoản vốn là dương thì NHTƯ có nguồn để tăng dự trữ ngoại hối, trả nợ nước ngoài hoặc trả nợ IMF (ghi dấu âm trong cán cân thanh toán). Tóm lại, giá trị của tài khoản dự trữ chính thức đúng bằng với kết quả của cán cân tổng thể nhưng ngược dấu. Thực tế đây là một dạng “cân đối tài khoản kế toán” để tổng các hạng mục trong cán cân thanh toán quốc tế phải bằng không. Nhìn vào hạng mục này, có thể thấy ngay dự trữ ngoại hối của một quốc gia được tăng thêm hay giảm đi. Ngoài các khoản mục nêu trên, trong cán cân thanh toán quốc tế còn có một khoản mục nữa được gọi là lỗi và sai sót thống kê. Khoản mục này được đưa vào cán cân thanh toán để đảm bảo sự cân bằng kế toán đáp ứng nguyên tắc kế toán (tổng nợ bằng tổng có). Số dư của khoản mục này nếu có là do sự sai lệch về thống kê do nhầm lẫn, bỏ sót hoặc không thu thập được số liệu trong các hạng mục của cán cân thanh toán. Số dư này sẽ bằng không nếu tất cả các khoản mục trong cán cân thanh toán quốc tế đã được thống kê chính xác. Giá trị của khoản mục này nếu được ghi, chỉ là ước tính sự thay đổi về giá trị của tư bản đầu tư, tái đầu tư, về giá cả khi hạch toán (giữa giá CIF và giá FOB). 1.1.3. Nguyên tắc thiết lập cán cân thanh toán quốc tế Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những tài khoản kinh tế vĩ mô quan trọng, nó phản ánh toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn lại của thế giới. Nó có mối quan hệ chặt chẽ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác như bảng cân đối ngân sách, cân đối tiền tệ, hệ thống tài khoản quốc gia. Chính vì vậy, khi thiết lập cán cân thanh toán quốc tế cần tuân thủ theo các nguyên tắc sau: Nguyên tắc hạch toán kép: Theo quan điểm kế toán, cán cân thanh toán quốc tế luôn cân bằng. Bởi vì, một giao dịch quốc tế được hạch toán trong cán cân thanh toán theo nguyên tắc ghi sổ kép giống như các hạch toán kế toán ở các công ty kinh doanh. Nghĩa là một khoản giao dịch giữa người cư trú và người không cư trú được ghi hai lần trong cán cân thanh toán: một ghi nợ và một ghi có (đối ứng) với giá trị như nhau. + Ghi nợ: trong trường hợp phải chi trả cho nước ngoài, nghĩa là những giao dịch làm cho quỹ tiền tệ ở trong nước (của chính phủ hoặc tư nhân) giảm đi. Trong cán cân thanh toán, những khoản này được mang dấu âm (-). + Ghi có: trong trường hợp nhận được chi trả từ nước ngoài, tức là những khoản giao dịch mang về cho quốc gia một lượng ngoại tệ nhất định. Trong cán cân thanh toán, những khoản này được mang dấu dương (+). Nhìn chung, những khoản ghi dấu âm (ghi nợ) thể hiện việc mua thực tế ngoại tệ được thực hiện bởi những người cư trú nhằm chi trả cho những nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, tiền tệ và các tài sản khác từ nước ngoài. Nó phản ánh luồng vốn ra của một quốc gia. Tương tự, những khoản ghi dấu dương (ghi có) thể hiện việc bán thực tế những ngoại tệ thu được của người cư trú do xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và các tài sản khác. Nó phản á
Tài liệu liên quan