Ngày nay, trên thế giới, du lịch đã và đang trở thành một ngành kinh tế dịch vụ phát triển, nó được ví như “con gà đẻ trứng vàng” của nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, du lịch còn là một ngành công nghiệp non trẻ và đầy tiềm năng, hứa hẹn nhiều cơ hội phát triển hơn nữa trong tương lai. Tuy nhiên, nó có thể tiềm ẩn những hậu quả tiêu cực trên nhiều phương diện mà chúng ta cần phải có những biện pháp khắc phục kịp thời. Và nếu như hiện nay, các vấn đề về tài nguyên thiên nhiên và những tác động của hoạt động du lịch đối với môi trường tự nhiên đã được quan tâm thì các giá trị văn hóa xã hội cùng với những tác động mà du lịch đem lại cho tài nguyên văn hóa và cư dân bản địa, đặc biệt là các di sản văn hóa truyền thống của dân tộc cũng đã bắt đầu nhận được sự chú ý quan tâm của các cấp, ngành ở Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, du lịch là một trong những ngành kinh tế “hết sức phụ thuộc vào môi trường thiên nhiên cũng như các đặc trưng văn hóa xã hội của cư dân bản địa” (Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên quốc tế tại Việt Nam. “Xây dựng năng lực phục vụ các sáng kiến về du lịch bền vững”. Đề cương dự án, 1997). Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, các nhà khoa học trên thế giới đã đề cập nhiều đến phát triển du lịch với mục đích đơn thuần là kinh tế đang đe dọa môi trường sinh thái và nền văn hóa bản địa. Hậu quả của các tác động này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của ngành du lịch. Chính vì vậy đã xuất hiện yêu cầu nghiên cứu “phát triển du lịch bền vững” nhằm hạn chế tác động tiêu cực của hoạt động du lịch, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Một số loại hình du lịch đã được ra đời bước đầu quan tâm đến khía cạnh môi trường và văn hóa bản địa như: du lịch sinh thái, du lịch gắn với thiên nhiên, du lịch mạo hiểm, du lịch khám phá, du lịch cộng đồng đã góp phần nâng cao hiệu quả của mô hình du lịch có trách nhiệm, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
91 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1873 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà, thành phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trên thế giới, du lịch đã và đang trở thành một ngành kinh tế dịch vụ phát triển, nó được ví như “con gà đẻ trứng vàng” của nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, du lịch còn là một ngành công nghiệp non trẻ và đầy tiềm năng, hứa hẹn nhiều cơ hội phát triển hơn nữa trong tương lai. Tuy nhiên, nó có thể tiềm ẩn những hậu quả tiêu cực trên nhiều phương diện mà chúng ta cần phải có những biện pháp khắc phục kịp thời. Và nếu như hiện nay, các vấn đề về tài nguyên thiên nhiên và những tác động của hoạt động du lịch đối với môi trường tự nhiên đã được quan tâm thì các giá trị văn hóa xã hội cùng với những tác động mà du lịch đem lại cho tài nguyên văn hóa và cư dân bản địa, đặc biệt là các di sản văn hóa truyền thống của dân tộc cũng đã bắt đầu nhận được sự chú ý quan tâm của các cấp, ngành ở Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, du lịch là một trong những ngành kinh tế “hết sức phụ thuộc vào môi trường thiên nhiên cũng như các đặc trưng văn hóa xã hội của cư dân bản địa” (Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên quốc tế tại Việt Nam. “Xây dựng năng lực phục vụ các sáng kiến về du lịch bền vững”. Đề cương dự án, 1997). Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, các nhà khoa học trên thế giới đã đề cập nhiều đến phát triển du lịch với mục đích đơn thuần là kinh tế đang đe dọa môi trường sinh thái và nền văn hóa bản địa. Hậu quả của các tác động này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của ngành du lịch. Chính vì vậy đã xuất hiện yêu cầu nghiên cứu “phát triển du lịch bền vững” nhằm hạn chế tác động tiêu cực của hoạt động du lịch, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Một số loại hình du lịch đã được ra đời bước đầu quan tâm đến khía cạnh môi trường và văn hóa bản địa như: du lịch sinh thái, du lịch gắn với thiên nhiên, du lịch mạo hiểm, du lịch khám phá, du lịch cộng đồng đã góp phần nâng cao hiệu quả của mô hình du lịch có trách nhiệm, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Du lịch bền vững cũng như du lịch cộng đồng ở nước ta vẫn còn là một khái niệm mới. Tuy rằng trong thời gian gần đây cụm từ này đã được nhắc đến khá nhiều. Thông qua các bài học kinh nghiệm thực tế về phát triển du lịch tại các quốc gia trên thế giới, nhận thức về một phương thức du lịch có trách nhiệm với môi trường, có tác dụng nâng cao hiểu biết và chất lượng cuộc sống cho cộng đồng đã xuất hiện tại Việt Nam dưới các hình thức du lịch tham quan, tìm hiểu với những tên gọi như: du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch thiên nhiên...
Nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch tại các điểm du lịch vì sự phát triển bền vững dài hạn, đồng thời khuyến khích và tạo các cơ hội tham gia của người dân địa phương, trong những năm qua, loại hình du lịch này đã và đang được triển khai tại nhiều địa phương trong cả nước: Bản Lác – Mai Châu (Hòa Bình), Suối Voi – Lộc Tiên – Phú Lộc (Thừa Thiên Huế), vườn quốc gia Ba Bể, thôn Sín Chải – Sa Pa, đảo Cát Bà (thành phố Hải Phòng)... Tuy nhiên việc phát triển một số mô hình tại các địa phương còn mang tính thí nghiệm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm cho từng khu vực. Do đó, công tác triển khai vẫn còn chậm và chưa đi vào nề nếp, chưa hoạt động hiệu quả theo đúng quy tắc của du lịch cộng đồng, du lịch bền vững.
Thành phố Hải Phòng là một trong những điểm có tiềm năng to lớn về du lịch cộng đồng, đặc biệt là đảo Cát Bà, một địa danh vốn thường được gắn với loại hình du lịch sinh thái. Bên cạnh việc phát triển những loại hình du lịch sinh thái, trong những năm gần đây, thành phố triển khai mô hình du lịch cộng đồng tại bốn xã trên đảo, đó là Hiền Hào, Xuân Đám, Trân Châu và Việt Hải. Mô hình du lịch cộng đồng đã được hình thành và xây dựng điểm tại ba xã gần thị trấn (Hiền Hào, Xuân Đám và Trân Châu) do tổ chức FFI hỗ trợ trong thời gian 2005 – 2007 chưa hoàn thành và chưa đạt hiệu quả nên thành phố tiếp tục xây dựng đề án “Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng tại 03 xã trên đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng” đã được đưa vào triển khai tại các xã từ năm 2008, đồng thời huyện Cát Hải cũng xây dựng đề án “Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng tại xã Việt Hải, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng” nhằm đưa du lịch cộng đồng thành hướng đi cho vấn đề thoát nghèo và phát triển bền vững. Đây là hình thức xã hội hóa hoạt động du lịch môt cách triệt để nhất mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, không chỉ tạo công ăn việc làm đem lại thu nhập cho người dân địa phương mà qua đó còn giáo dục ý thức giữ gìn những nét văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Tuy nhiên, đến nay mô hình này đang bộc lộ nhiều hạn chế cần giải quyết kịp thời để phát triển hơn nữa loại hình du lịch này trên đảo.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn phát triển du lịch cộng đồng tại đảo Cát Bà như vậy, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà, thành phố Hải Phòng” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. Tôi hy vọng với vốn hiểu biết có hạn và nguồn tài liệu ít ỏi, đề tài của tôi sẽ góp một phần nhỏ cho sự phát triển của mô hình du lịch cộng đồng tại đảo Cát Bà, hướng đến sự phát triển bền vững cho đảo Ngọc của thành phố hoa phượng đỏ.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu đề tài, chúng ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu về các nguồn tài nguyên để phát triển du lịch cộng đồng tại Cát Bà, đồng thời cũng chỉ ra những thực trạng trong công tác xây dựng và triển khai mô hình du lịch này tại bốn xã trên đảo Cát Bà, qua đó đưa ra những giải pháp cho việc phát triển và nhân rộng mô hình du lịch cộng đồng cho toàn huyện Cát Hải.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, nơi có vườn quốc gia Cát Bà cũng là một trong số ít khu Dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam, một trong những danh thắng nổi tiếng của cả nước.
Về nội dung: với thời gian và khả năng có hạn, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chính sau:
Lý thuyết về du lịch dựa vào cộng đồng
Những đặc trưng về tài nguyên của đảo Cát Bà trong việc phát triển loại hình du lịch cộng đồng của đảo
Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tại bốn xã trên đảo thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng.
Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển hơn nữa mô hình du lịch cộng đồng tại các xã tham gia dự án.
Về không gian: đề tài được giới hạn trong phạm vi huyện Cát Hải nói chung và đảo Cát Bà nói riêng, đặc biệt là bốn xã có trong mô hình du lịch cộng đồng của đảo Cát Bà, đó là các xã Hiền Hào, Trân Châu, Xuân Đám và Việt Hải.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện để hoàn thành bài khóa luận, tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp sưu tầm và nghiên cứu tài liệu
Phương pháp phân tích tư liệu và tổng hợp kết quả
Phương pháp khảo sát thực tế
Phương pháp điều tra, thăm dò ý kiến
5. Đóng góp của khóa luận
- Khóa luận được trình bày trên cơ sở lý luận về du lịch dựa vào cộng đồng và thực tiễn xây dựng mô hình du lịch cộng đồng tại bốn xã: Hiền Hào, Xuân Đám, Trân Châu và Việt Hải trên đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng nhằm đưa ra những giải pháp cho việc phát triển mô hình này.
- Khóa luận hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo giúp các bạn hiểu thêm về loại hình du lịch dựa vào cộng đồng, có thể sử dụng là nguồn tham khảo cho các đề tài sau.
- Khóa luận còn có thể là tài liệu tham khảo cho các công ty, đơn vị kinh doanh lữ hành áp dụng bổ sung các chương trình du lịch dựa vào cộng đồng trên đảo Cát Bà làm phong phú thêm cho hoạt động du lịch của đảo.
- Bên cạnh đó, những thông tin khóa luận cung cấp có thể sử dụng làm tài liệu cho các cơ quan, Ban quản lý các cấp của mô hình để có thể có những giải pháp khắc phục những hạn chế đồng thời phát triển hơn nữa hiệu quả của mô hình du lịch cộng đồng tại đảo Cát Bà.
6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, khóa luận gồm ba chương như sau:
Chương I: Tổng quan về du lịch dựa vào cộng đồng
Chương II: Thực trạng hoạt động du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà
Chương III: Giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả hoạt động du lịch cộng đồng trên đảo Cát Bà
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
Du lịch cộng đồng trong sự phát triển bền vững
Lý thuyết về cộng đồng
Cộng đồng – một khái niệm lý thuyết cũng như thực hành xuất hiện vào những năm 1940 tại các nước thuộc địa của Anh. Năm 1950, Liên hiệp quốc công nhận khái niệm phát triển cộng đồng và khuyến khích các quốc gia sử dụng khái niệm này như một công cụ để thực hiện các chương trình viện trợ quy mô lớn về kĩ thuật, phương pháp và tài chính vào tập kỷ 50 – 60..
Trước hết, quan điểm về cộng đồng đề cập đến các yếu tố con người với phạm vi địa lý, mối quan hệ và mục đích chung trong phát triển và bảo tồn cộng đồng đó. Theo Keith và Ary, 1998 thì “Cộng đồng là một nhóm người, thường sinh sống trên cùng khu vực địa lý, tự xác định mình thuộc về cùng một nhóm. Những người trong cùng một cộng đồng thường có quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân và có thể thuộc cùng một nhóm tôn giáo, một tầng lớp chính trị”
(A community is a group of people, offen living in the same geographic area, who identify themselfves as belonging to the same group. The people in a community are offen related by blood or marriage, and may all belong to the same religious or political group, class or caste. (Keith and Ary, 1998) )
Như vậy, mặc dù các cộng đồng có thể có nhiều cái chung, nhưng sẽ trở nên phức tạp nếu cho rằng họ là một nhóm đồng nhất. Các cộng đồng có thể bao gồm nhiều nhóm riêng như nông dân và thị dân, người giàu và người nghèo, người định cư lâu và người mới định cư... Các nhóm quyền lợi khác nhau trong một cộng đồng dường như bị các thay đổi liên quan đến du lịch tác động đến một cách khác nhau. Các nhóm ấy phản ứng trước những thay đổi đó như thế nào phụ thuộc vào mối quan hệ họ hàng, tôn giáo, chính trị và các mối ràng buộc mạnh mẽ đã được phát triển giữa các thành viên qua nhiều thế hệ. Tùy thuộc vào một vấn đề, một cộng đồng có thể đoàn kết hay chia rẽ về tư tưởng hay hành động (United Nation Food and Agriculture Organisation, 1990).
Khái niệm Cộng đồng (community) là một trong những khái niệm xã hội học. Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng được sử dụng một cách tương đối rộng rãi, để chỉ nhiều đối tượng có những đặc điểm tương đối khác nhau về quy mô, đặc tính xã hội. Từ những khối tập hợp người, các liên minh rộng lớn như cộng đồng châu Âu, cộng đồng các nước Ả Rập,... đến một hạng/kiểu xã hội, căn cứ vào đặc tính tương đồng về sắc tộc, chủng tộc hay tôn giáo,... như cộng đồng người Do Thái, cộng đồng người da đen tại Chicago. Nhỏ hơn nữa, danh từ cộng đồng được sử dụng cho các đơn vị xã hội cơ bản là gia đình, làng hay một nhóm xã hội nào đó có những đặc tính xã hội chung về lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, thân phận xã hội như nhóm những người lái xa taxi, nhóm người khiếm thị,..
Khái niệm cộng đồng bao gồm các thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ cho đến các tổ chức ít có cấu trúc chặt chẽ, là một nhóm xã hội có lúc khá phân tán, được liên kết bằng lợi ích chung trong một không gian tạm thời, dài hay ngắn như phong trào quần chúng, công chúng, khán giả, đám đông,...
Bên cạnh đó, còn có một cách nhìn nhận khác, coi cộng đồng như một đặc thù chỉ có ở nền văn minh con người, ở đó con người hợp tác với nhau nhờ những lợi ích chung
Tại Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm phát triển cộng đồng được giới thiệu vào giữa những năm 1950 thông qua một số hoạt động phát triển cộng đồng tại các tỉnh phía nam, trong lĩnh vực giáo dục. Từ ngành giáo dục, phát triển cộng đồng chuyển sang lĩnh vực công tác xã hội. Đến những năm 1960, 1970, hoạt động phát triển cộng đồng được đẩy mạnh thông qua các chương trình phát triển nông thôn của sinh viên hay của phong trào Phật giáo.
Từ thập kỷ 80 của thế kỷ trước cho đến nay, phát triển cộng đồng được biết đến một cách rộng rãi hơn thông qua các chương trình viện trợ phát triển của nước ngoài tại Việt Nam, có sự tham gia của người dân tại cộng đồng như một nhân tố quyết định để chương trình đạt được hiệu quả bền vững. Các đường lối và phương pháp cơ bản về phát triển cộng đồng đã được triển khai trên thực tiễn ở Việt Nam, bằng các nhân sự trong nước với cả những thành công và thất bại. Bộ môn “phát triển cộng đồng và tổ chức cộng đồng” được giảng dạy trong một số trường đại học ở phía Nam với giáo trình được biên soạn như một môn cơ bản. Gần đây, bộ môn này đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức cấp mã ngành.
1.1.2. Lý thuyết phát triển du lịch dựa vào cộng đồng
Các quan điểm về du lịch cộng đồng
Thuật ngữ Du lịch dựa vào cộng đồng xuất phát từ hình thức du lịch làng bản từ những năm 1970 và khách du lịch tham quan các làng bản, tìm hiểu về phong tục tập quán, cuộc sống hoang dã, lễ hội, cũng có thể là một vài khách muốn khám phá hệ sinh thái đa dạng, địa hình hiểm trở, nhiều núi cao vực sâu nhưng lại thưa thớt dân cư, các điều kiện sinh hoạt đi lại và hỗ trợ rất khó khăn, nhất là đối với khách tham quan. Những lúc như vậy, những khách này rất cần có sự trợ giúp như dẫn đường để tránh lạc, nơi ở qua đêm, ăn uống đã được người dân bản xứ tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp các dịch vụ; lúc đó, khách du lịch thường gọi là chuyến du lịch có sự hỗ trợ của người bản xứ – đây là tiền đề cho phát triển loại hình du lịch dựa vào cộng đồng.
Ngày nay, du lịch cộng đồng được chính phủ, tổ chức kinh tế, xã hội của các nước quan tâm nên đã trở thành lĩnh vực mới trong ngành công nghiệp du lịch. Bên cạnh đó, các tổ chức phi chính phủ tạo điều kiện giúp đỡ và tham gia vào lĩnh vực này nên từ đó các vấn đề xã hội, văn hóa, chính trị, kinh tế và sinh thái trong khuôn viên làng bản trở thành những tác nhân tham gia cung cấp dịch vụ cho du khách và thu hút được nhiều khách du lịch đến tham quan, người dân bản xứ cũng có thu nhập từ việc cung cấp dịch vụ và phục vụ khách tham quan nên loại hình du lịch dựa vào cộng đồng ngày càng được phổ biến và có ý nghĩa không chỉ đối với khách du lịch, chính quyền sở tại mà với cả cộng đồng.
Trên thực tế, du lịch dựa vào cộng đồng đã được hình thành, lan rộng và tạo ra sự phong phú, đa dạng cho các loại sản phẩm dịch vụ cho các loại khách du lịch vào thập kỷ 89 và 90 của thế kỷ trước tại các nước trong khu vực châu Phi, châu Úc, châu Mỹ La Tinh, du lịch cộng đồng được phát triển thông qua các tổ chức phi chính phủ, Hội thiên nhiên Thế giới. Du lịch dựa vào cộng đồng bắt đầu phát triển mạnh ở các nước châu Á, trong đó có các nước trong khu vực ASEAN: Indonesia, Philipin, Thái Lan; các nước khu vực khác: Ấn Độ, Nepal, Đài Loan.
Về mặt lý luận về du lịch cộng đồng: Các nước ASEAN như Indonesia, Philipin, Thái Lan đã tổ chức rất nhiều cuộc hội thảo về xây dựng mô hình và tập huấn, đào tạo kỹ năng phát triển du lịch dựa vào cộng đồng.
Một số tên gọi thường dùng khi nói đến du lịch dựa vào cộng đồng:
- Du lịch dựa vào cộng đồng (Community – based Tourism)
- Phát triển cộng đồng dựa vào du lịch (Community – development in tourism)
- (Phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng (Community – Based Ecotourism)
- Phát triển du lịch có sự tham gia của cộng đồng (Community – Participation in Tourism)
Du lịch dựa vào cộng đồng là một phương thức hoạt động du lịch và có những điều kiện, tính chất hoạt động giống như loại hình du lịch sinh thái, du lịch bền vững như sau:
- Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực cộng đồng của cộng đồng địa phương (Thế Đạt, Du lịch và du lịch sinh thái, 2003). Du lịch sinh thái nhấn mạnh và đề cao yếu tố giáo dục, nâng cao ý thức con người trong vấn đề bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên và bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa do con người tạo ra.
- Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng những nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển các hoạt động du lịch trong tương lai...(Nguyễn Đình Hòe và Vũ Văn Hiếu, Du lịch bền vững, 2001). Du lịch bền vững hướng đến việc quản lý các nguồn tài nguyên sao cho các nhu cầu kinh tế xã hội đều được thỏa mãn trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, các đặc điểm sinh thái, sự đa dạng sinh học và hệ thống hỗ trợ đời sống.
Như vậy, du lịch cộng đồng chính là nét tinh túy của du lịch sinh thái và du lịch bền vững. Du lịch cộng đồng nhấn mạnh vào cả hai yếu tố là tự nhiên, môi trường và con người.
Một số khái niệm cơ bản về du lịch dựa vào cộng đồng
Do vị trí về du lịch dựa vào cộng đồng, tùy theo góc nhìn, quan điểm nghiên cứu mà du lịch cộng đồng có những khái niệm khác nhau.
Nhà nghiên cứu Nicole Hausle và Wollfgang Strasdas đưa ra khái niệm: “Du lịch cộng đồng là một hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương” (Nicole Hausler and Wolfang Strasdas, Community Based Sustainable Tourism A Reader, 2000). Quan niệm trên nhấn mạnh đến vai trò chính của người dân địa phương trong vấn đề phát triển du lịch ngay trên địa bàn họ quản lý.
Du lịch cộng đồng là “phương thức tổ chức du lịch đề cao về môi trường, văn hóa xã hội. Du lịch cộng đồng do cộng đồng sở hữu và quản lý, vì cộng đồng và cho phép khách du lịch nâng cao nhận thức và học hỏi về cộng đồng, về cuộc sống đời thường của họ” (Rest: Respondsible Ecological Social Tours, Thailand, 1997)
Từ việc nghiên cứu các khái niệm về du lịch dựa vào cộng đồng, tiến sỹ Võ Quế đã rút ra khái niệm Phát triển du lịch dựa vào cộng đồng trong cuốn sách của mình: “Du lịch dựa vào cộng đồng là phương thức phát triển du lịch trong đó cộng đồng dân cư tổ chức cung cấp các dịch vụ