Khóa luận Thực trạng và giải pháp hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty cổ phần chứng khoán Âu Lạc

Thị trường chứng khoán (TTCK) được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển của nền kinh tế qua diễn biến trên TTCK. Là bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, TTCK được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán trao đổi các loại chứng khoán. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những nguyên tác ấn định trước. Xét về mặt bản chất thì TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn tiết kiệm, tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Chính vì vậy TTCK có vai trò và chức năng đặc biệt quan trọng với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp thông qua đó tạo cơ hội cho chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính Phủ. Để hình thành và phát triển TTCK có hiệu quả, một yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia các kinh doanh trên TTCK. Do vậy, để thúc đẩy TTCK hoạt động một cách có trật tự, công bằng và hiệu quả cần phải có sự ra đời và hoạt động của CTCK. Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK trên thế giới cho thấy thời tiền sử của TTCK, các nhà môi giới hoạt động cá nhân độc lập với nhau. Sau này, cùng với sự phát triển của TTCK chức năng và quy mô hoạt động giao dịch của các nhà môi giới tăng lên đòi hỏi sự ra đời của các CTCK. Chỉ có các CTCK với đội ngũ nhân viên có đủ năng lực trình độ, có đủ khả năng đứng ra kết nối giữa người mua - người bán, kết nối cung - cầu trên thị trường. Như vậy, CTCK là một định chế tài chính trung gian thực hiện các hoạt động trên TTCK. Theo quyết định số 55/2004/QĐ – BTC của Bộ trưởng bộ Tài chính thì “ CTCK là công ty cổ phần, công ty TNHH thành lập theo pháp luật Việt Nam để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép kinh doanh chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp”. Như vậy, với hoạt động chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp CTCK thực hiện được vai trò trung gian môi giới mua bán phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành.

docx58 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và giải pháp hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty cổ phần chứng khoán Âu Lạc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1 Hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán. 1.1.1 Công ty chứng khoán. 1.1.1.1 Khái niệm CTCK Thị trường chứng khoán (TTCK) được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển của nền kinh tế qua diễn biến trên TTCK. Là bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, TTCK được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán trao đổi các loại chứng khoán. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những nguyên tác ấn định trước. Xét về mặt bản chất thì TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn tiết kiệm, tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Chính vì vậy TTCK có vai trò và chức năng đặc biệt quan trọng với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp thông qua đó tạo cơ hội cho chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính Phủ. Để hình thành và phát triển TTCK có hiệu quả, một yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia các kinh doanh trên TTCK. Do vậy, để thúc đẩy TTCK hoạt động một cách có trật tự, công bằng và hiệu quả cần phải có sự ra đời và hoạt động của CTCK. Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK trên thế giới cho thấy thời tiền sử của TTCK, các nhà môi giới hoạt động cá nhân độc lập với nhau. Sau này, cùng với sự phát triển của TTCK chức năng và quy mô hoạt động giao dịch của các nhà môi giới tăng lên đòi hỏi sự ra đời của các CTCK. Chỉ có các CTCK với đội ngũ nhân viên có đủ năng lực trình độ, có đủ khả năng đứng ra kết nối giữa người mua - người bán, kết nối cung - cầu trên thị trường. Như vậy, CTCK là một định chế tài chính trung gian thực hiện các hoạt động trên TTCK. Theo quyết định số 55/2004/QĐ – BTC của Bộ trưởng bộ Tài chính thì “ CTCK là công ty cổ phần, công ty TNHH thành lập theo pháp luật Việt Nam để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép kinh doanh chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp”. Như vậy, với hoạt động chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp CTCK thực hiện được vai trò trung gian môi giới mua bán phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành. 1.1.1.2 Vai trò chức năng của CTCK. Hoạt động của TTCK trước hết cần những người môi giớí trung gian, đó là các CTCK - một định chế tài chính trên TTCK, CTCK là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của TTCK nói riêng. Nhờ các CTCK mà các cổ phiếu và trái phiếu lưu thông buôn bán tấp lập trên TTCK, qua đó một lượng vốn được đưa vào đầu tư từ việc tập hợp những nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng. Chức năng cơ bản của các CTCK: - Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến người sử dụng vốn ( thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành). - Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch ( thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp lệnh). - Tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán - Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường ( thông qua hoạt động hoạt động hoặc vai trò nhà tạo lập thị trường ). Khi thực hiện các chức năng của mình các CTCK cũng tạo ra sản phẩm, vì các công ty này hoạt động với tư cách đại lý hay công ty ủy thác trong quá trình mua bán các chứng khoán được niêm yết và không được niêm yết, đồng thời cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư cho các cá nhân, các công ty cổ phần, và cả chính phủ nữa. */ Vai trò huy động vốn. Các ngân hàng, các công ty chứng khoán và các quỹ đầu tư đều là các trung gian tài chính với vai trò huy động vốn. Nói một cách đơn giản, các tổ chức này có vai trò làm chiếc cầu nối và đồng thời làm các kênh dẫn cho vốn chảy từ một hay một số bộ phận nào đó của nền kinh tế có dư thừa vốn ( vốn nhàn rỗi) đến các bộ phận khác của nền kinh tế đang thiếu vốn ( cần huy động vốn). Các công ty chứng khoán thường đảm nhiệm vai trò này qua các hoạt động bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán. */ Vai trò cung cấp một cơ chế giá cả. Ngành công nghiệp chứng khoán nói chung, CTCK nói riêng, thông qua các sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC, có chức năng cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình. CTCK còn có một chức năng quan trọng là can thiệp trên thị trường, góp phần điều tiết giá chứng khoán. Theo quy định của các nước, CTCK bắt buộc phải dành ra một tỉ lệ nhất định giao dịch của mình để mua chứng khoán vào khi giá chứng khoán trên thị trường đang giảm và bán ra khi giá chứng khoán cao. */ Vai trò cung cấp một cơ chế chuyển ra tiền mặt. Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng khoán có giá và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định. Các CTCK đảm nhận được chức năng chuyển đổi này, giúp cho nhà đầu tư phải chịu ít thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư. Chẳng hạn, trong hầu hết các nghiệp vụ đầu tư ở sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC ngày nay, một nhà đầu tư có thể hàng ngày chuyển đổi tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại mà không phải chịu thiệt hại đáng kể với giá trị khoản đầu tư của mình. Nói cách khác, có thể có một số nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến giá trị đầu tư, chẳng hạn như tin đồn về một vấn đề nào đó trong nền kinh tế, nhưng giá trị khoản đầu tư không giảm đi do cơ chế mua bán. */ Thực hiện tư vấn đầu tư. Các CTCK với đầy đủ các dịch vụ không những thực hiện đầy đủ các mệnh của khách hàng, mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc nghiên cứu thị trường rồi cung cấp các thông tin đó cho các công ty và các nhân đầu tư. */ Tạo ra sản phẩm mới. Trong mấy năm gần đây, chủng loại chứng khoán đã phát triển với tốc độ rất nhanh do một số nguyên nhân, trong đó có yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài chính và sự nỗ lực trong tiếp thị của các công ty chứng khoán. Ngoài cổ phiếu ( thường có ưu đãi) và trái phiếu đã được biết đến, các CTCK hiện nay còn bán trái phiếu chính phủ ( trung ương và địa phương), chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn và các sản phẩm lai tạo ra tính đa dạng phù hợp với thay đổi trên thị trường và môi trường kinh tế. 1.1.2 Các hoạt động cơ bản của CTCK Hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp, tùy thuộc vào quy định của từng nước về mô hình, cơ sở vật chất, vốn điều lệ mà các CTCK có thể thực hiện một, một số hoặc toàn bộ hoạt động của CTCK. Nhìn chung các CTCK có các hoạt động cơ bản sau: 1.1.2.1 Hoạt động tự doanh Tụ doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán các chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của CTCK được thục hiện thông qua cơ chế giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK) hoặc thị trường OTC. Trên thị trường tập trung, lệnh giao dịch của CTCK được đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của khách hàng. Trên thị trường OTC các hoạt động này có thể được thực hiện tiếp giữa công ty với các đối tác hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Mục đích của hoạt động hoạt động của các CTCK là nhằm thu lợi cho chính mình. Khác với hoạt động môi giới, CTCK chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh CTCK kinh doanh bằng chứng nguồn vốn của của công ty. Vì vậy CTCK đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đua ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò nhà tạo lập thị trường. 1.1.2.2 Hoạt động bảo lãnh phát hành Hoạt động bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán, giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Như vậy các CTCK giúp cho tổ chức phát hành thực hiện thành công đợt chào bán chứng khoán ra công chúng. Doanh thu của CTCK từ hoạt động này là phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành do đó hoạt động bảo lãnh phát hành chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của CTCK, đồng thời đây cũng là hoạt động đòi hỏi phải có vốn pháp định cao nhất. 1.1.2.3 Hoạt động quản lý danh mục đầu tư Đây là hoạt động quản lý vốn ủy thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo quản vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư là một dạng hoạt động tư vấn mang tính chất tổng hợp kèm theo đầu tư, khách hàng ủy thác cho CTCK thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp nhân hoặc yêu cầu ( mức lợi nhuận kỳ vọng, rủi ro có thể chấp nhận vv.. vv). Thực hiện hoạt động này cho khách hàng CTCK vừa bảo quản hộ chứng khoán, vừa đầu tư hộ chứng khoán. Thông thường CTCK nhận được phí quản lý bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên một số lợi nhuận thu về cho khách hàng. Quy trình của một hoạt động quản lý danh mục đầu tư bao gồm: - Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý: CTCK và khách hàng tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn tư đó đưa ra các yêu cầu về quản lý vốn ủy thác. - Ký hợp đồng quản lý: lúc này công ty và khách hàng sẽ ký hợp đồng theo các yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian ủy thác, mục tiêu đầu tư, quyền và trách nhiệm của các bên, phí quản lý danh mục đầu tư. - Thực hiện hợp đồng quản lý: CTCK thực hiện đầu tư vốn ủy thác của khách hàng theo các nội dung đã được cam kết và phải đảm bảo tuân thủ các quy định về quản lý vốn, tài sản tách biệt giữa khách hàng và chính công ty. - Kết thúc hợp đồng quản lý: khách hàng có nghĩa vụ thanh toán các khoản phí quản lý theo các hợp đồng ký kết và xử lý các trường hợp khi CTCK ngưng hoạt động, giải thể hoặc phá sản. 1.1.2.4 Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu cho khách hàng. Đối với hoạt động tư vấn chứng khoán do đặc điểm riêng trong ngành là giá cả thị trường luôn biến động nên việc tư vấn về giá trị chứng khoán rất khó khăn, đồng thời có thể xảy ra nhiều xung đột về lợi ích. Đặc biệt là với hoạt động này các nhà tư vấn có thể gây ra những hiểu lầm đáng tiếc về giá trị và xu hướng giá cả của các loại chứng khoán, việc này có thể do khả năng hoặc có thể do họ cố tình gây hiểu lầm để kiếm lợi. Do vậy, đây là hoạt động hoạt động cần được quản lý chặt chẽ và đòi hỏi phải có những giới hạn nhất định khi thực hiện công việc. Một số hoạt động tư vấn cơ bản: Tư vấn tài chính doanh nghiệp Tư vấn cổ phần hóa Tư vấn niêm yết Tư vấn mua và sáp nhập công ty Tư vấn bán và giải thể công ty ……. 1.1.2.5 Các hoạt động khác. */ Lưu ký chứng khoán Lưu ký chứng khoán là việc giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các CTCK ( nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ ) hoặc ký gửi chứng khoán ( nếu phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất ). Khi thực hiên hoạt động lưu ký chứng khoán cho khách hàng CTCK sẽ nhận được phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán. */ Quản lý cổ tức Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. */ Hoạt động tín dụng Đối với các TTCK phát triển, bên cạnh hoạt động môi giới cho khách hàng để hưởng hoa hồng, CTCK còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện hoạt động bán khống hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện hoạt động mua ký quỹ. 1.2 Hoạt động môi giới chứng khoán. 1.2.1 Khái niệm Thị trường ngày càng phát triển ở trình độ cao, sản phẩm và dịch vụ càng dồi dào về số lượng, đa dạng phong phú về chủng loại, tinh tế và nhạy cảm trong vận hành chức năng. Theo đó đòi hỏi về việc cung cấp cho người đầu tư những thông tin cần thiết, những lời khuyên mang tính thời điểm hay mang tính thời điểm hay mang tính chiến lược và giúp người đầu tư thực hiện giao dịch theo các cách có lợi nhất do vậy phải có hoạt động môi giới chứng khoán phát triển mang tính chuyên nghiệp cao. Với tư cách là một thể chế bậc cao của nền kinh tế thị trường, một trong những đặc trưng của TTCK là hoạt động theo nguyên tắc trung gian. Theo nguyên tắc này các giao dịch trên thị trường bắt buộc phải thực hiện thông qua người môi giới mà đại diện là các CTCK. Giao dịch trên thị trường phải thông qua môi giới trung gian nhằm đảm bảo sự công bằng bình đẳng giữa mọi người, đảm bảo lợi thế ngang bằng trong giao dịch. Như vậy, môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh trong đó một CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sàn giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của chính giao dịch đó. Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến khách hàng các sản phẩm,dich vụ tư vấn đầu tư và kêt nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán và nhà đầu tư mua chứng khoán. Và trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành những người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo. Xuất phát từ yêu cầu trên, người môi giới đòi hỏi phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc và với thái độ công tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Người môi giới chứng khoán là những người hoạt động chuyên nghiệp trên thị trường, họ là những chuyên gia tài chính có khả năng phân tích tình hình kinh tế - xã hội, phân tích đánh giá tình hình hiên tại và nhận định xu hướng trong tương lai của các loại chứng khoán cũng như xu thế chung của toàn thị trường. Người môi giới không chỉ đơn giản là trung gian giao dịch mua bán chứng khoán cho khách hàng họ còn là người tư vấn cho khách hàng. Nhà đầu tư khi tìm đến các CTCK nói chung hay các nhân viên môi giới nói riêng luôn mong nhân được những lời khuyên, lời tư vấn tất cả các hoạt động mua bán của mình. Có những nhà đầu tư mà sự hiểu biết để lụa chọn chứng khoán và thời cơ đầu tư còn chưa cụ thể, họ tìm đến là mong muốn được tư vấn, giúp đỡ để đưa ra quyết định.Thấy rằng hoạt động môi giới chứng khoán tại CTCK là một hoạt động khép kín bao gồm các hoạt động sau: tư vấn đầu tư chứng khoán, giao dịch chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ khách hàng. 1.2.2 Vai trò của môi giới chứng khoán 1.2.2.1 Giảm chi phí giao dịch Cũng như trên tất cả thị trường khác, để tiến hành giao dịch thì người bán và người mua phải có cơ hội để gặp được nhau, thẩm định chất lượng hàng hóa và thoả thuận giá cả. Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán với tư cách là một thị trường của sản phẩm và dịch vụ bậc cao, để thẩm định chất lượng và giá cả của hàng hóa, người ta cần một khoản chi phí khổng lồ để phục vụ cho việc thu thập, xử lí thông tin và tiến hành quy trình giao dịch trên một hệ thống thị trường đấu giá, tập trung. Những chi phí đó chỉ có các CTCK hoạt động chuyên nghiệp trên quy mô lớn mới có khả năng trang trải do được hưởng lợi ích kinh tế nhờ quy mô lớn. Như thể vai trò của môi giới chứng khoán là tiết kiệm được chi phí giao dịch xét trong từng giao dịch cụ thể cũng như trong tổng thể thị trường, nhờ đó giúp nâng cao tính thanh khoản thị trường. 1.2.2.2 Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường Công ty môi giới chứng khoán và các nhân viên môi giới, khi thực hiện vai tròn làm trung gian giữa người bán và người mua có thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và phản ánh với người cung ứng hàng hóa và dịch vụ. Có thể nói hoạt động môi giới chính là một trong những nguồn cung cấp những ý tưởng thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Kết quả của quá trình đó, xét trong dài hạn, là cải thiện được tính đa dạng của sản phẩm và dịch vụ nhờ đó đa dạng hóa được cơ cấu khách hàng, thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư tăng trưởng. */ Góp phần hình thành nền văn hóa đầu tư Hoạt động của công ty môi giới và nhân viên môi giới chứng khoán một khi đã thâm nhập sâu rộng vào cộng đồng các doanh nghiệp và người đầu tư sẽ là một yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên cái gọi là một nền văn hóa đầu tư. Những đặc trưng chủ yếu của một nền văn hóa đầu tư là: - Ý thức và thói quen đầu tư trong cộng đồng. Trong những nền kinh tế mà môi trường đầu tư còn thô sơ thì thu nhập được tạo ra trong các hộ gia đình sau khi đã trang trải cho những nhu cầu cơ bản của cuộc sống thường được chi tiêu cho những mục đích phi sản xuất với tỷ lệ khá cao, trong khi vốn cho tăng trưởng trong nền kinh tế lại thiếu trầm trọng. Khi nhân viên môi giới tiếp cận tới những khách hàng tiềm năng, họ mang những sản phẩm tài chính phù hợp với nhu cầu của khách hàng, họ giải thích về những lợi ích mà sản phẩm đem lại, và sau khi khách hàng chấp nhận mở tài khoản nhân viên môi giới sẽ thường xuyên quan tâm chăm sóc tài khoản theo cách có lợi nhất cho khách hàng. Hoạt động này lâu dần sẽ hình thành nên thói quen đầu tư vào tài sản tài chính. - Thói quen và kỹ năng sử dụng các dịch vụ đầu tư, mà phổ biến là dịch vụ môi giới chứng khoán. Theo thời gian, người đầu tư sẽ dần dần hình thành được sự tin cậy và ủy thác cho người môi giới chứng khoán. - Môi trường pháp lý, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật. Chính hoạt động của các công ty môi giới chứng khoán và nhân viên môi giới là một yếu tố góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý trong kinh doanh chứng khoán. Hoạt động môi giới sẽ đưa pháp luật đến với người đầu tư giúp họ luôn có ý thức tìm hiểu và tuân thủ pháp luật; đồng thời cũng phản ánh những bất cập trong điều chỉnh của khuôn khổ pháp lý tới các nhà làm luật để kịp thời chỉnh sửa. */ Tăng chất lượng và hiệu quả của dịch vụ nhờ cạnh tranh Để thành công trong nghề môi giới chứng khoán, điều quan trọng là từng công ty môi giới và từng người môi giới phải thu hút được nhiều khách hàng tìm đến, giữ chân được những khách hàng đã có và gia tăng được khối lượng tài sản mà khách hàng đã ủy thác cho họ quản lý. Các kết quả nghiên cứu cho thấy ở những thị trường phát triển, 20% trong tổng số các nhà môi giới – những người thành công nhất – đã tạo ra tới 80% nguồn thu từ hoa hồng cho công ty hoặc cho ngành; và tính trung bình thì một nhà môi giới hàng đầu điển hình tạo ra khoản thu từ hoa hồng nhiều gấp 16 lần mức thu mà một người môi giới trung bình mang lại. Nguyên nhân tạo ra sự khác biệt này chính là quá trình cạnh tranh giữa những người hành nghề môi giới khiến họ phải không ngừng trau dồi nghiệp vụ, nâng cao đạo đức và kĩ năng hành nghề, nghiêm chỉnh chấp hàng pháp luật và những quy định của công ty. Quá trình này đã nâng cao được chất lượng và hiệu quả của hoạt động môi giới chứng khoán xét trên toàn cục. 1.2.2.3 Hình thành những dịch vụ mới trong nền kinh tế tạo thêm việc làm và làm phong phú thêm cho môi trường đầu tư. Với phương thức hoạt động là chủ động tìm đến khách hàng đặc biệt là những khách hàng cá nhân và đem đến cho họ những dịch vụ tài chính tốt nhất. Nên CTCK nào cũng có lực lượng những người bán hàng rất đông đảo. Bên cạnh đó, để hỗ trợ cho việc xây dựng cơ sở khách hàng của người môi giới, trong xã hội sẽ xuất hiện các dịch vụ khác như cung cấp các danh sách khách hàng tiềm năn
Tài liệu liên quan