Để xây dựng đất nước giàu mạnh và phát triển trong bối cảnh
toàn cầu hoá, khu vực hoá, hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta không
thể xem nhẹ hoạt động ngoại thương vì nó đảm bảo sự giao lưu hàng
hoá, thông thương với các nước bè bạn năm châu, giúp chúng ta khai
thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của cả nguồn lực bên trong
và bên ngoài trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá quốc
tế.
Nhưng nhắc đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá chúng ta
không thể không nói đến dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá quốc tế
vì đây là hai hoạt động không tách rời nhau, chúng có tác động qua
lại thống nhất với nhau. Qui mô của hoạt động xuất nhập khẩu tăng
lên nhanh chóng trong những năm gần đây là nguyên nhân trực tiếp
khiến cho giao nhận vận tải nói chung và giao nhận vận tải biển nói
riêng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và bề sâu. Bên cạnh đó,
với hơn 3000 km bờ biển cùng rất nhiều cảng lớn nhỏ rải khắp chiều
dài đất nước, ngành giao nhận vận tải biển Việt Nam thực sự đã có
những bước tiến rất đáng kể, chứng minh được tính ưu việt của nó so
với các phương thức giao nhận vận tải khác. Khối lượng và giá trị
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT
2
giao nhận qua các cảng biển luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá
trị giao nhận hàng hóa quốc tế của Việt Nam. Điều này có ý nghĩa
rất lớn, nó không chỉ nối liền sản xuất với tiêu thụ, giúp đưa hàng
hoá Việt Nam đến với bạn bè quốc tế mà còn góp phần nâng cao khả
năng cạnh tranh của hàng hoá nước ta trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, hiện nay khi mà chúng ta chưa có một hệ thống văn
bản pháp luật đồng bộ, chặt chẽ quản lý hoạt động này, lại trong bối
cảnh “Nhà nhà làm giao nhận, người người làm giao nhận” thì hoạt
động giao nhận vận tải trở nên hết sức lộn xộn, khó quản lý và ngày
càng bộc lộ nhiều tiêu cực.
Trước tình hình đó, Công ty giao nhận kho vận ngoại thương -VIETRANS vốn là doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong lĩnh vực giao
nhận ở Việt Nam cũng không tránh khỏi những trở ngại. Trải qua
hơn 30 năm hoạt động, VIETRANS đã từng bước hoàn thiện và củng
cố hoạt động kinh doanh của mình. Tuy vậy, để tồn tại và phát triển
lâu dài, công ty không còn cách nào khác là phải nhìn nhận lại tình
hình, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp thực tế để thúc đẩy hiệu
quả hoạt động hơn nữa.
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT
3
Trong thời gian thực tập và tìm hiểu tại VIETRANS, với kiến
thức của một sinh viên khoa Kinh Tế Ngoại Thương trường Đại học
Ngoại Thương, cùng với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự
phát triển của công ty, em đã chọn đề tài: “Giao nhận hàng hóa
quốc tế bằng đường biển tại Công ty giao nhận kho vận ngoại
thương - VIETRANS”.
Khoá luận được chia làm 3 phần:
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ GIAO NHẬN
VẬN TẢI HÀNG HOÁ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG GIAO NHẬN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY GIAO NHẬN
KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG - VIETRANS
CHƯƠNG III: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIAO
NHẬN VẬN TẢI BIỂN TẠI VIETRANS
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo hướng dẫn
TS. Vũ Sĩ Tuấn và các anh chị, cô chú công tác tại VIETRANS đã tận
tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
162 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2174 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận tốt nghiệp Giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển tại Công ty giao nhận kho vận ngoại thương - VIETRANS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 1
LỜI MỞ ĐẦU
Để xây dựng đất nước giàu mạnh và phát triển trong bối cảnh
toàn cầu hoá, khu vực hoá, hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta không
thể xem nhẹ hoạt động ngoại thương vì nó đảm bảo sự giao lưu hàng
hoá, thông thương với các nước bè bạn năm châu, giúp chúng ta khai
thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của cả nguồn lực bên trong
và bên ngoài trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá quốc
tế.
Nhưng nhắc đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá chúng ta
không thể không nói đến dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá quốc tế
vì đây là hai hoạt động không tách rời nhau, chúng có tác động qua
lại thống nhất với nhau. Qui mô của hoạt động xuất nhập khẩu tăng
lên nhanh chóng trong những năm gần đây là nguyên nhân trực tiếp
khiến cho giao nhận vận tải nói chung và giao nhận vận tải biển nói
riêng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và bề sâu. Bên cạnh đó,
với hơn 3000 km bờ biển cùng rất nhiều cảng lớn nhỏ rải khắp chiều
dài đất nước, ngành giao nhận vận tải biển Việt Nam thực sự đã có
những bước tiến rất đáng kể, chứng minh được tính ưu việt của nó so
với các phương thức giao nhận vận tải khác. Khối lượng và giá trị
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 2
giao nhận qua các cảng biển luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá
trị giao nhận hàng hóa quốc tế của Việt Nam. Điều này có ý nghĩa
rất lớn, nó không chỉ nối liền sản xuất với tiêu thụ, giúp đưa hàng
hoá Việt Nam đến với bạn bè quốc tế mà còn góp phần nâng cao khả
năng cạnh tranh của hàng hoá nước ta trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, hiện nay khi mà chúng ta chưa có một hệ thống văn
bản pháp luật đồng bộ, chặt chẽ quản lý hoạt động này, lại trong bối
cảnh “Nhà nhà làm giao nhận, người người làm giao nhận” thì hoạt
động giao nhận vận tải trở nên hết sức lộn xộn, khó quản lý và ngày
càng bộc lộ nhiều tiêu cực.
Trước tình hình đó, Công ty giao nhận kho vận ngoại thương -
VIETRANS vốn là doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong lĩnh vực giao
nhận ở Việt Nam cũng không tránh khỏi những trở ngại. Trải qua
hơn 30 năm hoạt động, VIETRANS đã từng bước hoàn thiện và củng
cố hoạt động kinh doanh của mình. Tuy vậy, để tồn tại và phát triển
lâu dài, công ty không còn cách nào khác là phải nhìn nhận lại tình
hình, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp thực tế để thúc đẩy hiệu
quả hoạt động hơn nữa.
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 3
Trong thời gian thực tập và tìm hiểu tại VIETRANS, với kiến
thức của một sinh viên khoa Kinh Tế Ngoại Thương trường Đại học
Ngoại Thương, cùng với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự
phát triển của công ty, em đã chọn đề tài: “Giao nhận hàng hóa
quốc tế bằng đường biển tại Công ty giao nhận kho vận ngoại
thương - VIETRANS”.
Khoá luận được chia làm 3 phần:
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ GIAO NHẬN
VẬN TẢI HÀNG HOÁ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG GIAO NHẬN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY GIAO NHẬN
KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG - VIETRANS
CHƯƠNG III: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIAO
NHẬN VẬN TẢI BIỂN TẠI VIETRANS
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo hướng dẫn
TS. Vũ Sĩ Tuấn và các anh chị, cô chú công tác tại VIETRANS đã tận
tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 4
Tuy nhiên, do sự hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn
cũng như sự giới hạn về thời gian, bài viết của em chắc chắn không
tránh khỏi những thiếu sót cả về nội dung lẫn hình thức. Em rất
mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý quý báu của các thầy cô và các
bạn để giúp em trong quá trình nghiên cứu và công tác sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ GIAO NHẬN VẬN TẢI
HÀNG HOÁ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
I. DỊCH VỤ GIAO NHẬN VÀ NGƯỜI GIAO NHẬN
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 5
1. Dịch vụ giao nhận
1.1. Khái niệm
Giao nhận vận tải là những hoạt động nằm trong khâu lưu thông
phân phối, một khâu quan trọng nối liền sản xuất với tiêu thụ, hai
khâu chủ yếu của chu trình tái sản xuất xã hội. Giao nhận vận tải
thực hiện chức năng đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ,
hoàn thành mặt thứ hai của lưu thông phân phối là phân phối vật
chất, khi mặt thứ nhất là thủ tục thương mại đã hình thành.
Giao nhận gắn liền với vận tải, nhưng nó không chỉ đơn thuần là
vận tải. Giao nhận mang trong nó một ý nghĩa rộng hơn, đó là tổ
chức vận tải, lo liệu cho hàng hoá được vận chuyển, rồi bốc xếp, lưu
kho, chuyển tải, đóng gói, thủ tục, chứng từ…Với nội hàm rộng như
vậy, nên có rất nhiều định nghĩa về giao nhận.
Theo qui tắc mẫu của Liên đoàn các hiệp hội giao nhận quốc tế
(FIATA), dịch vụ giao nhận được định nghĩa như là “bất kỳ loại dịch
vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng
gói hay phân phối hàng hoá cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên
quan đến các dịch vụ trên, kể cả các vấn đề hải quan, tài chính, mua
bảo hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến hàng hoá”.
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 6
Theo luật Thương Mại Việt Nam thì “dịch vụ giao nhận hàng
hóa là hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận
hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu
bãi, làm các thủ tục, giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao
hàng cho người nhận theo sự uỷ thác của chủ hàng, của người vận tải
hoặc của người giao nhận khác”.
Như vậy về cơ bản, giao nhận hàng hóa là tập hợp những công
việc có liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển
hàng hóa từ nơi gửi hàng (người gửi hàng) đến nơi nhận hàng (người
nhận hàng).
1.2. Đặc điểm của dịch vụ giao nhận vận tải
Do cũng là một loại hình dịch vụ nên dịch vụ giao nhận vận tải
cũng mang những đặc điểm chung của dịch vụ, đó là nó là hàng hóa
vô hình nên không có tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đồng nhất,
không thể cất giữ trong kho, sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời,
chất lượng của dịch vụ phụ thuộc vào cảm nhận của người được phục
vụ.
Nhưng do đây là một hoạt động đặc thù nên dịch vụ này cũng có
những đặc điểm riêng:
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 7
Dịch vụ giao nhận vận tải không tạo ra sản phẩm vật chất, nó
chỉ làm cho đối tượng thay đổi vị trí về mặt không gian chứ
không tác động về mặt kỹ thuật làm thay đổi các đối tượng đó.
Nhưng giao nhận vận tải lại có tác động tích cực đến sự đến sự
phát triển của sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
Mang tính thụ động: Đó là do dịch vụ này phụ thuộc rất nhiều
vào nhu cầu của khách hàng, các qui định của người vận
chuyển, các ràng buộc về luật pháp, thể chế của chính phủ
(nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước thứ ba)…
Mang tính thời vụ: Dịch vụ giao nhận là dịch vụ phục vụ cho
hoạt động xuất nhập khẩu nên nó phụ thuộc rất lớn vào lượng
hàng hóa xuất nhập khẩu. Mà thường hoạt động xuất nhập
khẩu mang tính chất thời vụ nên hoạt động giao nhận cũng
chịu ảnh hưởng của tính thời vụ.
Ngoài những công việc như làm thủ tục, môi giới, lưu cước,
người làm dịch vụ giao nhận còn tiến hành các dịch vụ khác
như gom hàng, chia hàng, bốc xếp nên để hoàn thành công việc
tốt hay không còn phụ thuộc nhiều vào cơ sở vật chất kỹ thuật
và kinh nghiệm của người giao nhận.
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 8
1.3. Yêu cầu của dịch vụ giao nhận vận tải
Cũng như bất kỳ một loại dịch vụ nào, dịch vụ giao nhận vận tải
hàng hóa tuy không có những chỉ tiêu định tính để đánh giá chất
lượng nhưng nó cũng có những yêu cầu đòi hỏi riêng mà người giao
nhận phải đáp ứng mới thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng. Một
số yêu cầu của dịch vụ này bao gồm:
Giao nhận hàng hóa phải nhanh gọn. Nhanh gọn thể hiện ở thời
gian hàng đi từ nơi gửi đến nơi nhận, thời gian bốc xếp, kiểm đếm
giao nhận. Giảm thời gian giao nhận góp phần đưa ngay hàng hóa
vào đáp ứng nhu cầu của khách hàng, muốn vậy người làm giao nhận
phải nắm chắc quy trình kỹ thuật, chủng loại hàng hóa, lịch tàu và bố
trí hợp lý phương tiện vận chuyển.
Giao nhận chính xác an toàn. Đây là yêu cầu quan trọng để đảm
bảo quyền lợi của chủ hàng và người vận chuyển. Chính xác là yếu tố
chủ yếu quyết định chất lượng và mức độ hoàn thành công việc bao
gồm chính xác về số lượng, chất lượng, hiện trạng thực tế, chính xác
về chủ hàng, nhãn hiệu. Giao nhận chính xác an toàn sẽ hạn chế đến
mức thấp nhất sự thiếu hụt, nhầm lẫn, tổn thất về hàng hóa.
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 9
Bảo đảm chi phí thấp nhất. Giảm chi phí giao nhận là phương
tiện cạnh tranh hiệu quả giữa các đơn vị giao nhận. Muốn vậy phải
đầu tư thích đáng cơ sở vật chất, xây dựng và hoàn chỉnh các định
mức, các tiêu chuẩn hao phí, đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ.
2. Người giao nhận
2.1. Khái niệm
Chưa có một định nghĩa thống nhất nào về người giao nhận được
quốc tế chấp nhận. Người ta thường hiểu người kinh doanh dịch vụ
giao nhận hay các doanh nghiệp giao nhận là người giao nhận
(Forwarder, Freight Forwarder, Forwarding Agent). Theo FIATA,
“người giao nhận là người lo toan để hàng hóa được chuyên chở theo
hợp đồng ủy thác và hành động vì lợi ích của người ủy thác. Người
giao nhận cũng đảm nhận thực hiện mọi công việc liên quan đến hợp
đồng giao nhận như bảo quản, lưu kho trung chuyển, làm thủ tục hải
quan, kiểm hoá”.
Người giao nhận có thể là chủ hàng (khi chủ hàng tự đứng ra
đảm nhận công việc giao nhận hàng hóa của mình), chủ tàu (khi chủ
tàu thay mặt chủ hàng thực hiện dịch vụ giao nhận), công ty xếp dỡ
hay kho hàng, người giao nhận chuyên nghiệp hay bất kỳ người nào
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 10
khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa. Theo luật
Thương mại Việt Nam thì người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa là
thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ giao
nhận hàng hóa.
Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra nhận xét:
Người giao nhận hoạt động theo hợp đồng ủy thác ký với chủ
hàng, bảo vệ lợi ích của chủ hàng.
Người giao nhận lo liệu việc vận tải nhưng chưa hẳn là người
vận tải. Anh ta có thể sử dụng, thuê mướn người vận tải. Anh
ta cũng có thể có phương tiện vận tải, có thể tham gia vận tải,
nhưng đối với chủ hàng ủy thác, anh ta là người giao nhận, ký
hợp đồng ủy thác giao nhận, không phải là người vận tải.
Cùng với việc tổ chức vận tải, người giao nhận còn làm nhiều
việc khác trong phạm vi ủy thác của chủ hàng để đưa hàng từ
nơi này đến nơi khác theo những điều khoản đã cam kết.
Dù ở các nước khác nhau, tên gọi của người giao nhận có khác
nhau, nhưng tất cả đều cùng mang một tên chung trong giao dịch
quốc tế là “ người giao nhận hàng hóa quốc tế” (international freight
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 11
forwarder), và cùng làm một dịch vụ tương tự nhau, đó là dịch vụ
giao nhận.
2.2. Phạm vi các dịch vụ của người giao nhận
Cho dù người giao nhận thực hiện rất nhiều dịch vụ khác nhau
liên quan đến hàng hóa nhưng có thể tổng hợp thành các nhóm như
sau:
2.2.1. Dịch vụ thay mặt người gửi hàng (người xuất khẩu)
Theo chỉ dẫn của người gửi hàng, người giao nhận sẽ làm các
công việc sau đây:
Thay
mặt
người
gửi
hàng
Thay
mặt
người
nhận
hàng
Dịch
vụ
hàng
hóa
đặc
biệt
Dịch
vụ
khác
Phạm vi dịch vụ của người giao nhận
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 12
- Chọn tuyến đường, phương thức vận tải và người chuyên chở
thích hợp sao cho hàng được di chuyển nhanh chóng, an toàn, chính
xác, tiết kiệm.
- Lưu cước với người chuyên chở đã chọn.
- Nhận hàng, thiết lập và cung cấp những chứng từ cần thiết như
giấy chứng nhận nhận hàng của người giao nhận.
- Nghiên cứu những điều khoản trong tín dụng thư
- Đóng gói hàng hóa (trừ khi việc đóng gói hàng hóa thuộc trách
nhiệm của người gửi hàng trước khi giao hàng cho người giao nhận)
có tính đến tuyến đường, phương thức vận tải, bản chất của hàng hóa,
và những qui chế áp dụng nếu có, ở nước xuất khẩu, nước quá cảnh
và nước nhập khẩu.
- Lo liệu việc lưu kho, cân đo, mua bảo hiểm cho hàng hóa khi
khách hàng yêu cầu.
- Vận tải hàng hóa đến cảng, thực hiện việc khai báo hải quan,
các thủ tục chứng từ liên quan và giao hàng cho người chuyên chở.
- Thực hiện việc giao dịch ngoại hối, nếu có.
- Thanh toán phí và những chi phí khác bao gồm cả tiền cước.
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 13
- Nhận vận đơn đã ký của người chuyên chở giao cho người gửi
hàng.
- Thu xếp việc chuyển tải trên đường nếu cần thiết.
- Giám sát việc vận tải hàng hóa trên đường gửi tới người nhận
hàng thông qua những mối liên hệ với người chuyên chở và đại lý
của người giao nhận ở nước ngoài.
- Ghi nhận những tổn thất của hàng hóa, nếu có.
- Giúp đỡ người gửi hàng tiến hành khiếu nại với người chuyên
chở về tổn thất hàng hóa, nếu có.
2.2.2. Dịch vụ thay mặt người nhận hàng (người nhập khẩu)
Theo những chỉ dẫn của khách hàng, người giao nhận sẽ:
- Thay mặt người nhận hàng giám sát việc vận tải hàng hóa khi
trách nhiệm vận tải hàng hóa thuộc về người nhận hàng.
- Nhận và kiểm tra tất cả những chứng từ liên quan đến việc vận
chuyển hàng hóa, quan trọng nhất là vận đơn.
- Nhận hàng của người chuyên chở và nếu cần thì thanh toán
cước.
- Thu xếp việc khai báo hải quan và trả lệ phí, thuế và những phí
khác cho hải quan và những cơ quan liên quan.
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 14
- Thu xếp việc lưu kho quá cảnh nếu cần.
- Giao hàng đã làm thủ tục hải quan cho người nhận hàng.
- Giúp đỡ người nhận hàng tiến hành khiếu nại đối với người
chuyên chở về tổn thất hàng hóa nếu có.
- Giúp người nhận hàng trong việc lưu kho và phân phối hàng
hóa nếu hai bên có hợp đồng.
2.2.3. Dịch vụ giao nhận hàng hóa đặc biệt
Giao nhận hàng hóa đặc biệt khác giao nhận hàng hóa thông
thường ở chỗ công việc này đòi hỏi người giao nhận phải có thêm
các thiết bị chuyên dùng, đồng thời cũng yêu cầu người giao nhận
phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững chắc. Dó là do hàng hóa
đặc biệt không đồng nhất mà có thể là hàng bách hóa bao gồm nhiều
loại thành phẩm, bán thành phẩm, hay hàng sơ chế hoặc những hàng
hóa khác giao lưu trong buôn bán quốc tế.
Một số dịch vụ giao nhận hàng hóa đặc biệt mà người giao nhận
thường gặp hiện nay:
Giao nhận hàng công trình
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 15
Hàng công trình chủ yếu là máy móc nặng, thiết bị để xây dựng
những công trình lớn như nhà máy hoá chất, nhà máy thuỷ điện, sân
bay, cơ sở lọc dầu. Giao nhận hàng loại này là phải từ nơi sản xuất
đến tận công trường xây dựng trong đó việc di chuyển cần phải có kế
hoạch cẩn thận để đảm bảo giao hàng đúng thời hạn. Đây là một lĩnh
vực chuyên môn của người giao nhận vì nó cần những thiết bị đặc
biệt như cần cẩu loại nặng, xe vận tải ngoại cỡ, tàu chở hàng loại đặc
biệt v.v…
Giao nhận quần áo treo trên mắc
Quần áo may mặc được chuyên chở bằng những chiếc mắc áo
treo giá trong những container đặc biệt gọi là container treo (hanging
container). Đây cũng chỉ là những chiếc container 20’, 40’ bình
thường nhưng được lắp đặt thêm những thanh bar ngang hoặc dọc
hay những sợi dây có móc để móc mắc treo vào. Loại container này
có những yêu cầu về vệ sinh rất nghiêm ngặt. Ở nơi đến, quần áo
được chuyển trực tiếp từ container vào cửa hàng để bầy bán. Cách
này loại bỏ được việc phải chế biến lại quần áo nếu đóng nhồi trong
container, đồng thời tránh được ẩm ướt, bụi bậm.
Giao nhận hàng triển lãm
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 16
Người giao nhận thường được người tổ chức triển lãm hay các
đơn vị tham gia triển lãm giao cho việc chuyên chở hàng đến nơi
triển lãm ở nước ngoài. Đây thường là hàng tạm nhập tái xuất hoặc
tạm xuất tái nhập nên cũng có những thủ tục riêng trong giao nhận
không giống hàng hóa xuất nhập khẩu thông thường đòi hỏi người
giao nhận phải có kinh nghiệm.
2.2.4. Các dịch vụ khác
Ngoài những dịch vụ nêu trên, tuỳ thuộc vào yêu cầu của khách
hàng, người giao nhận có thể làm những dịch vụ khác nảy sinh trong
quá trình chuyên chở và cả những dịch vụ đặc biệt như gom hàng,
dịch vụ liên quan đến hàng công trình, công trình chìa khóa trao tay
v.v…
Người giao nhận cũng có thể thông báo cho khách hàng của
mình về nhu cầu tiêu dùng, thị trường mới, tình hình cạnh tranh,
chiến lược xuất khẩu, những điều khoản cần đưa vào hợp đồng mua
bán ngoại thương, tóm lại là tất cả những vấn đề liên quan đến công
việc kinh doanh của khách hàng, cho dù khách hàng có yêu cầu hay
không.
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 17
2.3. Địa vị pháp lý của người giao nhận
Do chưa có luật lệ quốc tế quy định về lĩnh vực này nên địa vị
pháp lý của người giao nhận ở từng nước có khác nhau, tùy theo luật
pháp ở nước đó.
Ở những nước có luật tập tục (common law) - luật không thành
văn, thông dụng trong các nước thuộc khối liên hiệp Anh, hình thành
trên cơ sở tập quán phổ biến trong quan hệ dân sự từ nhiều thế kỷ -
thì địa vị pháp lý của người giao nhận dựa trên khái niệm về đại lý.
Người giao nhận lấy danh nghĩa của người ủy thác (người gửi hàng
hay người nhận hàng) để giao dịch cho công việc của người ủy thác.
Hoạt động của người giao nhận khi đó phụ thuộc vào những quy
tắc truyền thống về đại lý, như việc phải mẫn cán khi thực hiện
nhiệm vụ của mình, phải trung thực với người ủy thác, tuân theo
những chỉ dẫn hợp lý của người ủy thác, mặt khác được hưởng
những quyền bảo vệ và giới hạn trách nhiệm phù hợp với vai trò của
một đại lý.
Trong trường hợp người giao nhận đảm nhận vai trò của người
ủy thác (hành động cho lợi ích của mình), tự mình ký kết hợp đồng
với người chuyên chở và các đại lý, thì người giao nhận sẽ không
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 18
được hưởng những quyền bảo vệ và giới hạn trách nhiệm nói trên,
anh ta phải chịu trách nhiệm cho cả quá trình giao nhận hàng hóa kể
cả khi hàng nằm trong tay những người chuyên chở và đại lý mà anh
ta sử dụng.
Ở những nước có luật dân sự (civil law) - luật quy định quyền
hạn và việc bồi thường của mỗi cá nhân - thì địa vị pháp lý quyền lợi
và nghĩa vụ của người giao nhận ở các nước khác nhau có khác nhau.
thông thường những người giao nhận phải lấy danh nghĩa của mình
giao dịch cho công việc của người ủy thác, họ vừa là người ủy thác
vừa là đại lý. Đối với người ủy thác (người nhận hàng hay người gửi
hàng) họ được coi là đại lý còn đối với người chuyên chở họ lại là
người ủy thác. Tuy nhiên thể chế mỗi nước sẽ có những điểm khác
biệt.
Liên đoàn các hiệp hội giao nhận quốc tế (FIATA) đã soạn thảo
Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn để các nước tham khảo xây dựng
các điều kiện cho ngành giao nhận của nước mình, giải thích rõ ràng
các nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của người giao nhận.
Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn quy định người giao nhận phải:
- Tiến hành chăm sóc chu đào hàng hóa được ủy thác.
Khoá luận tốt nghiệp SVDTU.net
Lã Thị Minh Trang - A14-K38D - KTNT 19
- Điều hành và lo liệu vận tải hàng hóa được ủy thác theo chỉ
dẫn của khách hàng về những vấn đề có liên quan đến hàng hóa đó.
- Người giao nhận không nhận đảm bảo hàng đến vào một ngày
nhất định, có quyền cầm giữ hàng khi khách hàng của mình không
thanh toán các khoản phí.
- Chỉ chịu trách nhiệm về lỗi lầm của bản thân mình và người
làm công cho mình, không chịu trách nhiệm về sai sót của bên thứ
ba, miễn là đã tỏ ra cần mẫn thích đáng trong vi