Truyện tranh Nhật Bản từ khi ra đời đến nay ngày càng nâng cao giá trị và được thanh thiếu niên,
nhất là trẻ em ưa thích. Cùng với sự phát triển của quá trình hội nhập quốc tế, truyện tranh Nhật
Bản đã vượt ra khỏi giới hạn đất nước mặt trời mọc đến với thế giới, trong đó có Việt Nam. Đặc
thù của loại truyện này là có sự gắn kết mật thiết giữa hai yếu tố “truyện” và “tranh” trong một
không gian và thời gian nghệ thuật khá độc đáo, tạo nên sức cuốn hút đặc biệt với trẻ em. Bài viết
trên cơ sở khái quát đôi nét về truyện tranh, đi sâu phân tích không gian và thời gian nghệ thuật
của truyện tranh Nhật Bản, nhằm giúp cho bạn đọc nâng cao năng lực nhận thức thông qua loại
hình giải trí này.
7 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 564 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện tranh Nhật Bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
58 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 3/2018
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Mỗi lứa tuổi khác nhau, nhu cầu và sở thích về
tìm hiểu thế giới cũng khác nhau. Trẻ em do năng
lực lý giải ngôn ngữ còn hạn chế, nên khi tiếp xúc
với truyện dài, lại hoàn toàn là ngôn từ sẽ dễ bị áp
lực về nội dung mà không tạo ra được hứng thú.
Truyện tranh Nhật Bản được thiết kế bằng những
chuỗi hình ảnh sinh động, kết hợp với lượng ngôn
từ ngắn gọn, cùng chuyển tải nội dung, có tác dụng
kích thích khả năng quan sát đi đôi với lý giải ngôn
từ, khiến cho trẻ em luôn hứng thú với thể loại
truyện này.
Truyện tranh Nhật Bản từ khi ra đời đến nay
ngày càng nâng cao giá trị và được thanh thiếu
niên, nhất là trẻ em ưa thích. Cùng với sự phát triển
của quá trình hội nhập quốc tế, truyện tranh Nhật
Bản đã vượt ra khỏi giới hạn đất nước mặt trời
mọc, đến với thế giới, trong đó có Việt Nam. Đặc
NGÔ THANH MAI *
*Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, ✉ thanhmai.ulis@gmail.com
Ngày nhận bài: 24/01/2018; ngày sửa chữa: 15/02/2018; ngày duyệt đăng: 28/02/2018
KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN TRANH NHẬT BẢN
TÓM TẮT
Truyện tranh Nhật Bản từ khi ra đời đến nay ngày càng nâng cao giá trị và được thanh thiếu niên,
nhất là trẻ em ưa thích. Cùng với sự phát triển của quá trình hội nhập quốc tế, truyện tranh Nhật
Bản đã vượt ra khỏi giới hạn đất nước mặt trời mọc đến với thế giới, trong đó có Việt Nam. Đặc
thù của loại truyện này là có sự gắn kết mật thiết giữa hai yếu tố “truyện” và “tranh” trong một
không gian và thời gian nghệ thuật khá độc đáo, tạo nên sức cuốn hút đặc biệt với trẻ em. Bài viết
trên cơ sở khái quát đôi nét về truyện tranh, đi sâu phân tích không gian và thời gian nghệ thuật
của truyện tranh Nhật Bản, nhằm giúp cho bạn đọc nâng cao năng lực nhận thức thông qua loại
hình giải trí này.
Từ khóa: không gian, nghệ thuật, thời gian, truyện tranh Nhật Bản
thù của loại truyện này là có sự gắn kết mật thiết
giữa hai yếu tố “truyện” và “tranh” trong không
gian và thời gian nghệ thuật độc đáo, tạo nên sức
cuốn hút đặc biệt với trẻ em, giúp chúng vừa quan
sát hình ảnh sinh động vừa thông qua ngôn ngữ
tìm hiểu nội dung câu chuyện theo một trình tự
logic, đồng thời qua đó trau dồi trí tưởng tượng và
năng lực tư duy của trẻ. Bài viết đi sâu phân tích
một số đặc điểm của không gian và thời gian nghệ
thuật của truyện tranh Nhật Bản, nhằm góp phần
giúp bạn đọc tìm hiểu sâu hơn về nghệ thuật thể
hiện của loại hình giải trí này.
2. KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN TRANH VÀ
TRUYỆN TRANH NHẬT BẢN
2.1. Về khái niệm truyện tranh
Truyện tranh, tiếng Anh là “comics”, tiếng
Pháp là “bande dessinée”, tiếng Anh là “comics”,
tiếng Nhật là “manga”, trước kia được in trên báo
59KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 12 - 3/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
chí bằng tranh, là truyện dành cho người thất học
(Phan Thị, 2002). Ngày nay, truyện tranh được
được đông đảo quần chúng yêu thích. Trong nửa
thế kỷ qua, cách nhìn nhận đối với loại hình nghệ
thuật này đã thay đổi nhanh chóng, được coi là loại
truyện giải trí không chỉ cho trẻ em mà còn cho cả
người trưởng thành.
Truyện tranh là một chỉnh thể bao gồm hai bộ
phận cấu tạo nên một cách vững chắc và có tính
đặc thù. Yếu tố “truyện” và yếu tố “tranh” chính là
hai bộ phận có mối quan hệ mật thiết với nhau làm
tăng tính hấp dẫn của truyện, đặc biệt với những
truyện tranh dành cho trẻ em thì hình ảnh và yếu tố
truyện phải được thể hiện nhất quán và trong sáng,
phù hợp với lứa tuổi của trẻ em.
Theo “Từ điển tiếng Việt phổ thông” của Viện
Ngôn ngữ học (2012), “tranh” là tác phẩm hội
họa phản ánh hiện thực bằng đường nét và màu
sắc” (tr.942). Còn “truyện” là “tác phẩm văn học
miêu tả tính cách nhân vật và diễn biến của nhân
vật thông qua những lời kể của nhà văn” (tr.971);
“truyện tranh là truyện kể bằng tranh thường có
thêm lời, thường dùng cho thiếu nhi” (tr.971). Chỉ
dừng ở những khái niệm ấy, chúng tôi cho rằng
đã có một mâu thuẫn không nhỏ trong tư duy khái
niệm cũng như trong tư duy về lý luận văn học đối
với loại hình truyện tranh.
Có thể nói, truyện tranh là một “loại hình văn
học” chứ không phải là một “loại hình hội họa”.
Cũng cần phải khẳng định lại rằng, do yếu tố
“truyện” đóng vai trò làm yếu tố chính văn, cho
nên cần định danh loại hình một cách chính xác là
“truyện tranh” chứ không phải là “tranh truyện”.
Yếu tố chính văn ấy được biểu hiện thông qua hai
hình thức kí hiệu đặc biệt là ngôn ngữ và hình vẽ.
Chỉ nên xem những đường nét trong truyện tranh
là “hình vẽ” chứ không phải là “tranh”. Bởi vậy,
thực chất định danh loại hình một cách chính xác
phải là “truyện hình vẽ” chứ không phải là “truyện
tranh”. Vậy, truyện tranh là gì?
Trên cơ sở tiếp thu và kế thừa quan điểm của
các nhà từ điển học, chúng tôi cho rằng, truyện
tranh là một thể loại văn học, có mối quan hệ mật
thiết với hội họa, điện ảnh và nhiếp ảnh. Đó có
thể là những câu chuyện xảy ra trong cuộc sống
hàng ngày, cũng có thể là những câu chuyện tưởng
tượng được thể hiện ra bằng tranh vẽ (có kèm theo
lời thoại).
Ở Nhật, người dân đã sớm có hứng thú với một
loại nghệ thuật về tranh ảnh (sau này là manga).
Manga thời kì này vẫn chỉ đơn giản là những dải
truyện tranh ngắn. Tuy vậy, giá trị giải trí của nó là
điều không ai có thể phủ nhận. Không những thế,
manga còn giữ một vị trí quan trọng xuyên suốt
lịch sử mỹ thuật Nhật Bản.
Từ thế kỷ XX, cánh cửa ngoại giao Nhật Bản
một lần nữa mở ra thế giới. Trong số đó, những
“dải truyện tranh ngắn” cũng được du nhập, trở
thành chất xúc tác làm nên manga, một bộ phận
thống trị của thị trường xuất bản Nhật Bản hiện
nay. Manga thời kỳ này được gọi là Ponchi-e. Nhật
Bản bắt đầu cho xuất bản những tờ tạp chí với nội
dung biếm họa với độ dày từ 1 - 4 trang, đồng thời
thuê những họa sĩ nước ngoài để dạy cho học sinh
của họ về đường nét, màu sắc, dáng điệu.
Trong thời gian chiến tranh, truyện tranh Nhật
Bản và tranh biếm họa được sáng tác nhằm phục
vụ nhiều mục đích khác nhau. Chúng có tính hài
hước, tính giải trí, cũng như những truyện phương
Tây, nhưng đồng thời chúng cũng được sử dụng
với mục đích tuyên truyền hoặc châm biếm nhằm
phục vụ lợi ích quốc gia, cổ vũ tinh thần binh lính.
Tuy nhiên, bởi thất bại nặng nề dưới tay quân
Đồng Minh vào cuối chiến tranh thế giới lần II, rất
nhiều truyện tranh Nhật phải chịu sự kiểm duyệt
nghiêm ngặt của phe chiến thắng, và sự phát triển
của cái sẽ trở thành “manga” Nhật Bản dường như
bị hoãn lại vô thời hạn.
Manga hiện đại khởi nguồn trong những năm
từ 1945 đến thập kỉ 60, khi một nước Nhật của chủ
nghĩa dân tộc cực đoan và quân phiệt trước đó xây
dựng lại cơ sở hạ tầng kinh tế và chính trị. Mặc dù
các chính sách kiểm duyệt của chính quyền chịu
sự chiếm đóng của Mỹ, tuyệt đối cấm những bài
viết và các tác phẩm nghệ thuật ca ngợi chiến tranh
và chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản, nhưng những
chính sách này lại không ngăn cản việc xuất bản
những thể loại khác, bao gồm manga. Thêm vào
60 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 3/2018
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
đó, Hiến pháp Nhật Bản năm 1947 (điều 21) ngăn
cấm mọi hình thức kiểm duyệt1, dẫn đến kết quả là
sự bùng nổ của các sáng tạo nghệ thật trong thời kỳ
này. Theo dòng thời gian, truyện tranh Nhật Bản
ngày càng phát triển, từng bước vươn ra thế giới
và được đông đảo bạn đọc quốc tế, trong đó có
Việt Nam đón nhận.
Như vậy, truyện tranh Nhật không phải là nó
tự xuất hiện và phát triển mà cũng chịu ảnh hưởng
từ phương Tây, nhưng quan trọng hơn là các nghệ
sĩ Nhật đã tận dụng khả năng sáng tạo của mình
đã tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị về nội dung
và nghệ thuật, ghi dấu ấn của mình trong lịch sử
truyện tranh. Một trong những đặc điểm nổi bật
của truyện tranh Nhật Bản là việc thiết kế không
gian và thời gian nghệ thuật, tạo ra tính logic và
sức cuốn hút với độc giả.
2.2. Về phân loại truyện tranh Nhật Bản
Hiện nay có nhiều cách phân loại truyện tranh
khác nhau, như phân loại dựa trên cơ sở giới tính
tiếp nhận, độ tuổi tiếp nhận, nội dung đề tài
Trong bài viết này, với mục đích hướng tới bạn đọc
Việt Nam, chúng tôi dựa vào những truyện tranh
được trẻ em Việt Nam yêu thích để đưa ra cách
phân chia theo nội dung đề tài gồm 8 thể loại và
coi đó là cơ sở để phân tích đặc điểm không gian,
thời gian nghệ thuật của truyện tranh Nhật Bản ở
Việt Nam. (Xem bảng 1)
3. KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ
THUẬT TRONG TRUYỆN TRANH NHẬT BẢN
3.1. Về khái niệm không gian và thời gian
Không gian và thời gian là hai khái niệm cơ
bản của rất nhiều ngành khoa học. Đó là một
cặp phạm trù của triết học mà Mác – Lênin dùng
để chỉ một phương thức tồn tại của vật chất.
Không gian và thời gian mà Mác – Lênin đề cập
là không gian và thời gian vật chất. Không có
không gian và thời gian thuần túy bên ngoài vật
chất và cả hai hình thức tồn tại này của vật chất
“nếu không có vật chất sẽ là hư vô, là những quan
Bảng 1: Phân loại truyện tranh theo nội dung đề tài
STT Thể loại Một số truyện tiêu biểu
1
Truyện tranh có tính chất giao
đấu (kiếm hiệp – siêu nhân – võ
thuật)
Thần tiễn sa mạc; Lone wolf and cub của Kojima; Siêu nhân
Locke của Yuki Hijiri.
2
Truyện tranh có tính chất kỳ ảo
– kinh dị
Monster của Naoki Urasawa; Death Note của Tsugumi &
Takashi; Holic của CLAMP.
3 Truyện tranh có tính chất phiêu
lưu – trinh thám
Meitantei Konan (thám tử lừng danh Conan) của G. Aoyama;
Q.E.D - Shomei Shuryo và Kato Motohiro; Thám tử Kindachi
của Sato và Karani.
4 Truyện tranh có tính chất lịch sử
Tam quốc chí của Lee Chu Shing; Buddha của Tezuka; Thần
đồng đất Việt của Công ty Phan Thị.
5
Truyện tranh có tính chất khoa
học – viễn tưởng
Black Jack; Astro Boy; Metropolis đều của Tezuka
6
Truyện tranh có tính chất thể
thao – nghệ thuật
Đường dẫn đến khung thành của Motoki Monma; Captain
Tsubasa của Takahashi Yōichi; Đầu bếp trứ danh của
Kawamura Watasu, Orange của nhóm Phong Dương
7
Truyện tranh có tính chất văn
hoá – xã hội
Chie – cô bé hạt tiêu của Haruki Etsum; Shin – Cậu bé bút chì;
Nhóc Marukô của tác giả Momoko Sakura; Titeuf: Bọn con
gái thật chán chết của Zep
8
Truyện tranh có tính chất tình
cảm – tâm lý
Candy – cô bé mồ côi của Kyoko Mizuki; Nữ hoàng Ai Cập
của Ouke no Monshou; Dòng sông huyền bí của Shinohara
Chie
61KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 12 - 3/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
niệm trừu tượng trống rỗng tồn tại trong đầu óc
của chúng ta” (Phạm Ngọc Hàm, 2017, tr.89).
Từ quan điểm trên của Mác – Lênin, có thể
thấy, không gian và thời gian “gắn liền với sự tri
nhận của con người về thế giới khách quan, phản
ánh đặc trưng tư duy, năng lực nhận thức thế giới
khách quan của từng dân tộc. Nó không chỉ là đối
tượng nghiên cứu của triết học, mà còn là đối tượng
nghiên cứu của ngôn ngữ học văn hóa” (Phạm
Ngọc Hàm, 2017, tr.89). Thời gian và không gian
đều là những thuộc tính của vận động. Nó luôn
được gắn với vật chất và vật thể. Các nhà triết học
đã chỉ ra rằng “thế giới” không ngừng vận động.
Nếu mọi vật trong vũ trụ đứng im, khái niệm thời
gian sẽ trở nên vô nghĩa. Có những sự vật chuyển
động mang tính lặp lại, nhưng cũng có những sự
vật chuyển động theo hướng khó xác định. Do đó,
để xác định thời gian, người ta thường so sánh một
quá trình vận động này với một quá trình vận động
khác có tính lặp lại nhiều hơn, ổn định hơn, dễ
hình dung hơn. Điều đó đã được vận dụng vào việc
tạo dựng không gian và thời gian nghệ thuật trong
truyện tranh, giúp cho trẻ em có thể khám phá thế
giới vật chất một cách có cơ sở khoa học và nâng
cao năng lực nhận thức, tư duy trừu tượng trong
quá trình tiếp xúc với loại hình nghệ thuật này.
3.2. Không gian nghệ thuật trong truyện tranh
Mọi vật trên thế giới đều tồn tại trong không
gian ba chiều: cao, xa, rộng trong cùng một chiều
thời gian nhất định. Không có hình tượng nghệ
thuật nào lại nằm ngoài một không gian hay một
nền cảnh nào đó. Có thể nhìn nhận rằng, không
có một loại hình văn học nào có khả năng tái hiện
không gian nghệ thuật tốt hơn và cụ thể hơn truyện
tranh. Nhiều khi, không gian nghệ thuật trong
truyện tranh đã vươn lên sánh ngang tầm của hội
họa và nhiếp ảnh. Trên một phương diện nào đó,
không gian trong truyện tranh chỉ chịu đứng sau
điện ảnh mà thôi. Chúng ta có thể khái quát không
gian trong truyện tranh bao gồm hai tính chất cơ
bản như sau:
- Thứ nhất: Tính chất chuyển động nối tiếp
Về cơ bản, mỗi khung tranh là một lát cắt của
không gian. Cụ thể hơn, mỗi khung hình nền phía
sau những nhân vật chính là biểu hiện của không
gian nghệ thuật. Các ô hình trong truyện tranh luôn
được thể hiện nối tiếp nhau. Điều này dẫn đến việc
không gian dù chi tiết hay sơ sài cũng đều chuyển
động theo một chiều phát triển cụ thể nào đó. Đặc
điểm này tỏ ra khá tương đồng với điện ảnh và truyền
hình trong tính chất của không gian nghệ thuật.
- Thứ hai: Tính phác họa cụ thể
Về tính chất này, do đặc điểm của yếu tố hình vẽ
xuất hiện chủ yếu trên bề mặt tác phẩm, nên không
gian nghệ thuật hầu như không cần đến ngôn ngữ
để diễn đạt. Truyện tranh ngày nay đang phát triển
theo hướng khai thác và nâng cao không gian nội
tâm của nhân vật mà bỏ qua không gian thực tại
của tác phẩm. Trong rất nhiều truyện tranh Nhật
Bản, bao bọc xung quanh nhân vật chỉ là những
biểu tượng có tính chất ước lệ về không gian nội
tâm như: tuyết rơi biểu thị cảm xúc cô đơn, những
con chuột hoặc con heo rớt từ trên trời xuống diễn
tả cảm giác mỉa mai, ngạc nhiên...
Không gian trong truyện tranh mặc dù được
thể hiện bằng hình vẽ nhưng không vì thế mà mất
đi tính quan niệm nghệ thuật sâu sắc. Quan niệm
về không gian nghệ thuật của truyện tranh dựa trên
sự kế thừa của cả quan niệm nghệ thuật trong hội
họa và văn học. Ví dụ, các quy luật thấu thị, quy
luật tỉ lệ xa gần, quy luật sáng tối đậm nhạt vốn là
quan niệm của hội hoạ phương Tây đã được đưa
vào comics một cách cụ thể. Trên một phương
diện khác, nguyên tắc “phủ ngưỡng tự đắc: 俯仰自
得” (xuất phát từ cách nói của nhà thơ Kê Khang,
thời Ngụy Tấn Trung Quốc) tức là cúi, ngửa, nhìn
ngắm, thể nghiệm trong lòng tạo ra không gian
trừu tượng. Nhân vật quan trọng thì vẽ to, nhân vật
phụ thì vẽ nhỏ. Những đặc trưng này vốn là quan
niệm hội họa phương Đông đã được áp dụng sâu
sắc vào sáng tác truyện tranh không chỉ của Nhật
Bản mà cả Trung Quốc nữa.
Không gian nghệ thuật có thể chia thành không
gian điểm, không gian tuyến và không gian mặt
phẳng. Nếu như “không gian tuyến” chủ yếu chú
trọng đến chiều dài mà không liên quan đến chiều
rộng, được tính bằng đường đời của các nhân vật thì
62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 3/2018
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
truyện tranh lịch sử là tiểu loại chiếm ưu thế. Nếu
như “không gian mặt phẳng” có tính chất tương
tự như không gian sân khấu, thì những truyện
tranh sáng tác theo đề tài nghệ thuật, văn hoá lại
có ưu điểm trong việc thể hiện. Trong khi đó, nếu
“không gian điểm” được xác định bằng những giới
hạn, tính chất, chức năng của nó thì truyện tranh có
đề tài giao đấu, trinh thám, kì ảo kinh dị, tình cảm
xã hội lại tỏ ra rất phù hợp với loại không gian này.
Phân định một cách cụ thể không gian nghệ thuật
của các tiểu loại truyện tranh, chúng tôi rút ra một
số kết luận như sau:
- Không gian truyện tranh có tính giao đấu.
Đây là kiểu không gian rộng lớn và luôn luôn
chuyển động, những địa điểm mang tính đặc trưng
của không gian này chính là chiến trường.
- Không gian truyện tranh có tính kinh dị – kỳ
ảo. Đây là kiểu không gian hẹp, phân bố theo dạng
không gian điểm. Những địa điểm chủ yếu của loại
không gian này là toà lâu đài, nhà xác, nghĩa địa
Tuy nhiên, không gian kỳ ảo có khi cũng được mở
ra với những đường biên và giới hạn rộng lớn và
mơ hồ đến vô cùng.
- Không gian truyện tranh có tính phiêu lưu
- trinh thám. Đây là kiểu không gian điểm, giới
hạn trong những khung cảnh hẹp. Thông thường
không gian trinh thám bắt đầu từ hiện trường,
những manh mối rồi phân định thành các tuyến
không gian điều tra.
- Không gian truyện tranh có tính lịch sử: Đây
là kiểu không gian rộng lớn, có tầm bao quát sâu
rộng cả một đất nước, một dân tộc, một sự kiện lớn
lao mang tính sử thi hoành tráng.
- Không gian truyện tranh có tính khoa học –
viễn tưởng. Đây là kiểu không gian đặt trong một
thế giới vật chất hiện đại rộng lớn. Không gian ở
đây mang tính giả tưởng, đặc trưng thường thấy đó
là bối cảnh vũ trụ bao la cùng những hành tinh xa
lạ hoặc trái đất trong một tương lai xa xôi.
- Không gian truyện tranh có tính thể thao –
nghệ thuật. Đây là kiểu không gian công cộng
hoặc không gian trình diễn sân khấu. Các bối cảnh
đặc trưng của nó là sân vận động, các sàn đấu và
các buổi biểu diễn. Tính chất xuyên suốt của dạng
không gian này là luôn luôn chuyển động.
- Không gian truyện tranh có tính văn hoá – xã
hội. Đây là những không gian cụ thể, xác định nên
một số mối quan hệ cơ bản nào đó của nhân vật
như gia đình, nhà trường, công ty. Không gian của
tiểu loại này thường bao quát song lại tập trung
nhấn mạnh vào một số điểm nhất định nhằm nêu
bật các mối quan hệ xã hội.
- Không gian truyện tranh có tính tình cảm –
tâm lý. Đây là kiểu không gian hẹp mang tính chất
riêng tư, đi sâu vào không gian đời tư và suy ngẫm
về nhân tình thế thái của nhân vật. Dạng phổ biến
nhất của không gian này là sự chi phối của yếu tố
tâm lý trong việc thể hiện không gian nghệ thuật.
3.3. Thời gian nghệ thuật trong truyện tranh
Thời gian trong truyện tranh không được thể
hiện bằng ngôn ngữ thông thường mà nó được trân
trọng giao cho hệ thống kí hiệu hình vẽ. Đây là
một thế mạnh hết sức đặc biệt của truyện tranh,
bởi nó đem lại một khả năng vô biên trong việc tạo
ra những dòng chảy thời gian nghệ thuật. Chỉ cần
vẽ một vài tia song song buông xuống phía trước
mặt nhân vật thì ta đã hiểu đó là ban ngày, và chỉ
cần tô đen khung tranh thì ta sẽ hiểu lúc này đang
là ban đêm. Chỉ cần vẽ bốn khung tranh với bốn
trạng thái của cây cỏ theo tuần tự: đâm chồi - nở
hoa - vàng lá và trụi lá là chúng ta đã hiểu được
đó là bốn mùa xuân – hạ – thu – đông trong một
năm đã lần lượt trôi qua. Tất cả quãng thời gian ấy,
tuyệt nhiên không cần dùng đến một câu trần thuật
hoặc miêu tả nào mà vẫn chuyển tải được không
chỉ thông tin về thời gian mà còn tạo ra cả cảm xúc
về thời gian nữa.
Một trong những đặc điểm nổi bật về vấn đề
thời gian trong truyện tranh, đó là tính phiếm định
về niên đại cụ thể trong tác phẩm. Chỉ trừ một số
bộ truyện tranh về đề tài lịch sử có niên đại chính
xác, còn lại đa phần thời gian trong truyện tranh
chỉ là sự giả định vào một khoảng thời đại chung
chung nào đó. Dựa trên quan điểm của G. Gnette
về thời gian trần thuật, chúng ta có thể áp dụng vào
việc phân tích, làm nổi rõ thời gian nghệ thuật của
truyện tranh như sau.
63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 12 - 3/2018
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
Trước hết, phương thức Ellipsis (tỉnh lược:
rút ngọn thời gian so với thực tế) và phương thức
Summany (lược thuật: lược kể trong một câu
chuyện ngắn một thời gian dài) tỏ ra chiếm ưu thế
trong các truyện về giao đấu (loại1), khoa học viễn
tưởng (loại 5), thể thao – nghệ thuật (loại 6), lịch
sử (loại 4). Do những đề tài này chiếm ưu thế về
số lượng trong thế giới truyện tranh, nên chúng ta
cũng có thể xem thời gian trong truyện tranh tuân
theo hai quy tắc cơ bản là Ellipsis và Summany.
Tiếp đó, phương thức Scence (cảnh tượng:
diễn biến thời gian như thời gian thực tế) và
phương thức Pause (dừng lại: diễn biến thời gian
bị ngưng đọng) chỉ phổ biến ở các đề tài phiêu lưu
trinh thám (loại 3), tình cảm – xã hội (loại 8). Đây
cũng chính là hai phương thức thứ yếu chi phối
thời gian nghệ thuật trong truyện tranh.
Xem xét vấn đề thời gian được trần thuật trong
truyện tranh, chú