Nghiên cứu này phân tích cụ thể lợi ích trực tiếp, gián tiếp ở biển Đông của Ấn Độ trên các khía
cạnh chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội. Xuất phát từ những lợi ích ấy, Ấn Độ đã nhanh chóng
tiến hành các hoạt động thực tiễn tại khu vực; bài viết điểm qua các hoạt động trên, đồng thời ghi nhận
các phản ứng, dấu hiệu ngoại giao…của các quốc gia, từ đó tìm cách lý giải thích hợp lợi ích hay quan
điểm của các quốc gia trong việc can dự của Ấn Độ và cuối cùng nêu lên triển vọng hợp tác Việt Nam -
Ấn Độ tại khu vực biển Đông
44 trang |
Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 411 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khu vực biển đông trên bàn cân chiến lược của Ấn Độ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
KHU VỰC BIỂN ĐÔNG TRÊN BÀN CÂN CHIẾN LƯỢC CỦA ẤN ĐỘ
Tác giả : Vũ Quang Minh
Tóm lược
Nghiên cứu này phân tích cụ thể lợi ích trực tiếp, gián tiếp ở biển Đông của Ấn Độ trên các khía
cạnh chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội. Xuất phát từ những lợi ích ấy, Ấn Độ đã nhanh chóng
tiến hành các hoạt động thực tiễn tại khu vực; bài viết điểm qua các hoạt động trên, đồng thời ghi nhận
các phản ứng, dấu hiệu ngoại giaocủa các quốc gia, từ đó tìm cách lý giải thích hợp lợi ích hay quan
điểm của các quốc gia trong việc can dự của Ấn Độ và cuối cùng nêu lên triển vọng hợp tác Việt Nam -
Ấn Độ tại khu vực biển Đông.
Giới thiệu
Biển Đông là vùng biển nửa kín nằm trung tâm khu vực Đông Nam Á có tầm quan trọng chiến
lược với các quốc gia trong khu vực và thế giới. Biển Đông hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi để phát triển
kinh tế với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt là dầu khí và thủy hải sản, cùng vị trí chiến
lược quan trọng với con đường giao thông thương mại huyết mạch từ Đông sang Tây, đồng thời tập
chung nhiều eo biển, hải cảng quân sự xung yếuVới vị trí và lợi ích đặc biệt như vậy khu vực biển
Đông đã trở thành đối tượng tranh chấp của sáu quốc gia gồm Trung Quốc, Việt Nam, Philipines,
Malaysia, Bruney và vùng lãnh thổ Đài Loan từ hơn nửa thế kỷ qua.
Đầu thế kỉ XXI đánh dấu những diễn biến mới, với sự gia tăng căng thẳng tranh chấp song hành
cùng tăng cường vũ trang của tất cả các quốc gia liên quan, đặc biệt sự can dự của các cường quốc lớn
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga và đáng chú ý của Ấn Độ tới khu vực. Ấn Độ với tương lai trở thành một cực
mới trong cục diện đa cực của thế giới đang tìm cách gây dựng ảnh hưởng toàn cầu, đã thúc đẩy sự tiếp
cận trực tiếp và gián tiếp vào vấn đề biển Đông, trong đó thước đo lợi ích sẽ quyết định tới chính sách và
mức độ tiếp cận vấn đề biển Đông của nước này.
Bài nghiên cứu tiếp cận cụ thể lợi ích Ấn Độ có thể khai thác ở biển Đông, tìm hiểu thực trạng và
ảnh hưởng của chính sách đối với khu vực biển Đông và đặt trong các mối tương quan song phương, đa
phương. Nghiên cứu cũng đánh giá vị trí, vai trò nhân tố Việt Nam trong việc thực hiện sách lược của Ấn
Độ và từ đó đưa ra gợi ý chính sách phù hợp.
Bài nghiên cứu có cấu trúc như sau:
1. Phân tích lợi ích trực tiếp, gián tiếp ở biển Đông với Ấn Độ trên các khía cạnh chính trị, an
ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội.
2. Điểm qua chính sách thực thi và hành động cụ thể của Ấn Độ qua các giai đoan trong lịch sử
và tương quan Ấn Độ-Biển Đông trong quan hệ với các nước.
3. Vai trò của nhân tố Việt Nam trong thực thi các chính sách biển Đông của Ấn Độ và các biện
pháp thúc đẩy sự hiện diện của Ấn Độ ở biển Đông
2
Bài nghiên cứu hy vọng đưa ra được cái nhìn tổng quan về lợi ích và sách lược của Ấn Độ, đồng
thời đóng góp ý kiến vào việc xây dựng chính sách tích cực thúc đẩy hiện diện chiến lược của Ấn Độ ở
biển Đông- phục vụ lợi ích cho Việt Nam cũng như toàn khu vực.
I. Lợi ích chiến lược của biển Đông đối với Ấn Độ
1. Lợi ích trưc tiếp
Ấn Độ là một quốc gia Nam Á với diện tích chiếm phần lớn bán đảo Ấn Độ, ước chừng 3,3 triệu
km
2
đứng thứ 7 thế giới, dân số khoảng 1,2 tỷ người với nền văn minh sông Ấn đã phát triển rực rỡ cách
đây 5 nghìn năm. Nền văn minh Ấn Độ trong suốt thời kì lịch sử ấy không ngừng gây ảnh hưởng và mở
rộng không gian phát triển ra các khu vực lân cận, trong đó có khu vực Đông Nam Á. Quá trình ảnh
hưởng này phần nào bị gián đoạn trong thế kỉ XVIII và IXX khi Ấn Độ bị cai quản bởi Đế chế Anh Quốc
thời bấy giờ Với cuộc cải cách kinh tế tận gốc năm 1990 của thế kỉ trước, Ấn Độ đang trong quá trình
phục hồi sức mạnh vốn có của mình để tăng cường ảnh hưởng tới khu vực châu Á và tiến tới toàn thế giới
trong một vài thập niên tới của thế kỉ XXI. Khu vực biển Đông nói riêng và Đông Nam Á nói chung có vị
trí chiến lược và vai trò quan trọng, đang trở thành mục tiêu tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc
trong đó có Ấn Độ.
a. Lợi ích văn hóa, tôn giáo
Thật vậy, mối quan hệ giữa Ấn Độ và biển đông nói riêng và khu vực ASEAN nói chung đã hình
thành từ thời xa xưa. Người Ấn Độ trước đây đã học được cách đóng tầu lớn và kỹ thuật đi biển của Ba
Tư, biết lợi dụng sức gió để chạy thuyền buồm chở 600-700 người để thực hiện những chuyến hải trình
dài ngày trên biển. Sự phát triển của ngành hàng hải thúc đẩy nhanh chóng mối liên kết văn hóa, xã hội và
lợi ích thương mại với các vùng đất mới, trong đó có các vương quốc ven biển Đông và các quốc gia hải
đảo Đông Nam Á bao gồm vương quốc Phù Nam, Champa, Srivijaya ở Sumatra và một số vương quốc ở
phía Đông và Nam Trung Quốc1. Lịch sử Biển đông đã tạo thuận lợi cho liên kết mậu dịch giúp hình
thành hệ thống thương mại phức tạp và phát triển giữa Trung Quốc, Đông Nam Á và Ấn Độ. Lịch sử đã
ghi chép lại sự kế tiếp các truyền thống thương mại giữa Trung Quốc, Ấn Độ, con đường thông thương
giữa hai quốc gia là hải trình qua Phù Nam tới eo đất Kra, hàng hóa sau đó được bốc rỡ chuyển qua một
dải đất hẹp rồi chuyển lại lên tàu Ấn Độ về các điểm phía tây2. Khoảng thế kỉ thứ VI, các nhà buôn bắt
đầu đi thuyền tới Srivijaya (Bán đảo Malaixia ngày nay) nơi trung chuyển hàng hóa Ấn Độ, thế giới A-
Rập và Trung Quốc, thời kỳ này do kỹ thuật còn hạn chế và gió ngược làm cho những con tàu không thể
đi trực tiếp từ biển Ấn Độ đến Biển Đông. Tại vị trí dọc bờ biển Ta-min-Na-du người ta đã tìm ra tiền xu
và đồ gốm Trung Quốc chứng minh hoạt động thương mại nhôn nhịp giữa Ấn Độ và Nam Trung Hoa nhờ
con đường hàng hải huyết mạch đi qua biển Đông, hải trình sau này được mệnh danh là “Con đường tơ
lụa trên biển” cùng với “Con đường gia vị” trở thành một trong những tuyến đường thương mại quan
trọng nhất trong thế giới trung cổ và cận đại.
1 Xem thêm liên hệ lịch sử giữa Ấn Độ và biển Đông xem thêm bài viết “Lợi ích của Ấn Độ ở biển Đông”, tác giả
Vijay Shakhuuja, bản tiếng Việt có tại
ich-ca-n---bin-ong-
2 Lynda Norene Shaffer, “Thời đại của phù nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 6”, 31/6/2013,
o.com/NgoBacLyndaNShaffer.htm
3
Đối với tôn giáo, Ấn Độ là xuất phát điểm của hai trong bốn tôn giáo chính trên thế giới là Ấn Độ
giáo (Hindu giáo) và Phật giáo. Theo kết quả của nhiều nghiên cứu, các nhà sử học thống nhất rằng tôn
giáo và văn hóa Ấn Độ truyền vào Đông Nam Á từ trước công nguyên khi các thầy tu Balamon hay nhà
sư được mời đi theo các đoàn thuyền buôn làm lễ cúng tế và chữa bệnh cho các thủy thủ đoàn. Dần dần
các thầy tu được mời làm nhân vật trung gian giữa thần thánh trong những nghi lễ của cư dân nơi mà các
lái thương đến buôn bán. Họ lập nghiệp định cư ở Đông Nam Á... đã tạo tiền đề để Hin Đu giáo trở thành
tôn giáo cung đình tại một số vương quốc3. Quá trình truyền bá cũng tương tự với đạo Phật, các nhà sư đi
đến những vùng đất xa xôi hơn, thông qua con đường thương mại huyết mạch từ Srilanka, Java, Phù
Nam, Chăm Pa đến Đại Việt và Trung Quốc, các nhà sư Ấn Độ đã mang Phật giáo truyền bá vào Trung
Quốc và chính tại đây Phật giáo mới phát triển rực rỡ và phát huy ảnh hưởng của đạo Phật ra khắp các
châu lục.
Cho đến ngày nay, Ấn Độ vẫn không ngừng truyền bá “sức mạnh mềm” trong đó thế mạnh vẫn là
văn hóa ra thế giới. Với bối cảnh Ấn Độ đang cố gắng cạnh tranh với các “cường quốc văn hóa” hiện nay
như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, các nước biển Đông – ASEAN được xác định là thị trường tiềm
năng, bao gồm hơn 500 triệu dân cùng một nền văn hóa mở dễ du nhập, đặc biệt đã có ảnh hưởng truyền
thống từ văn hóa Ấn Độ. Có thể thấy Ấn Độ đã bắt đầu gặt hái thành quả qua hoạt động văn hóa của nước
này. Ấn Độ đã thành lập nhiều Trung tâm văn hóa và tổ chức hoạt động giao lưu văn hóa ở các nước
trong khu vực. Người Ấn đã xây dựng thành công thương hiệu điện ảnh thương mại Bollywood, hiện
đang xuất khẩu ra nhiều nước. Trung tâm ASEAN-Ấn Độ (AIC) cũng được thành lập, có trụ sở tại New
Dehil để tăng cường hợp tác giữa ASEAN và Ấn Độ, hướng tới xây dựng Cộng đồng văn hóa-xã hội
ASEAN.
Gần đây, có một sự kiện gây chú ý nhân kỷ niệm hội nghị thượng đỉnh Ấn Độ với các nước khu
vực Đông Nam Á, tàu hải quân Shudarshini đã tái hiện chuyến hải trình xa xưa của Ấn Độ đến Đông
Nam Á bằng cách thăm hầu hết các cảng biển hiện có bao gồm cả những cảng mới xây dựng cho đến
những cảng tồn tại từ lịch sử. 4 Hoạt động của con tàu mang tính văn hóa nhưng cũng có thể là dấu hiệu
của sự quay trở lại và một thời kỳ Ấn Độ hiện diện tích cực trong khu vực sau nhiều năm vắng bóng, dựa
trên nền tảng những lợi ích và chiến lược mới được xác định.
b. Lợi ích kinh tế
Nguyên nhân địa chiến lược và địa kinh tế của khu vực biển Đông đã định hình lợi ích kinh tế tự
nhiên của Ấn Độ ở đây. Biển Đông là vùng biển tự nhiên tiếp giáp Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương,
nối liền Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, kết nối một vùng rộng lớn các nền kinh tế năng
động. Các quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc bao gồm cả Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan đều là
những nền kinh tế quan trọng trên thế giới; cũng là những đối tác kinh tế quan trọng của Ấn Độ. Có thể
thấy, xu hướng kim ngạch thương mại của Ấn Độ với các quốc gia này đang gia tăng và chiếm tỷ trọng
cao trong tổng kim ngạch buôn bán của Ấn Độ với thế giới.
3 Nguyễn Thị Vân(2012),”Ảnh hưởng của Hindu giáo với kiến trúc và điêu khắc ở một số vương quốc cổ Đông Nam
Á”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 9/2012, trang 46
4 India-ASEAN naval cooperation: An important strategy, 7/7/2013,
engagement/item/3624-india-asean-naval-cooperation-an-important-strategy
4
Về phía Ấn Độ, thị trường Đông Nam Á được xác định khoảng 650 triệu dân, tổng thu nhập 1700
tỷ USD, kim ngạch ngoại thương đạt 2300 tỷ USD, đầu tư đạt 144 tỷ USD và tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao, đây là thị trường rất quan trọng và đầy tiềm năng cho Ấn Độ. Hiện tại thương mại hai bên đạt 79 tỷ
USD vào năm 2012 và dự kiến đạt 100 tỷ USD vào năm 2015, sau khi Ấn Độ và ASEAN ký thỏa thuận
tự do kinh tế FTA. Mậu dịch hai chiều giữa Ấn Độ với Đài Loan, Hồng Kông cũng đạt giá trị lớn, riêng
với Trung Quốc thương mại hai chiều đã vượt trên 100 tỷ USD... Ấn Độ cũng hưởng những lợi ích không
nhỏ khi duy trì tuyến đường hàng hải qua biển đông đến Đông Bắc Á và Bắc Mỹ, theo ước tính sơ bộ 50
% hoạt động thương mại của Ấn Độ đi qua vùng biển này.
Với lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, Ấn Độ được hưởng lợi nhiều khi tăng cường đầu tư với
các nước trong khu vực. So với ASEAN, Trung Quốc hay Đài Loan, công nghệ sản xuất của Ấn Độ đi
sau nên kêu gọi đầu tư kèm chuyển giao công nghệ sẽ giúp nâng cao mặt bằng công nghệ thấp của Ấn
Độ. Trong khu vực có thể kể đến Singapore là một trong những nước đứng đầu về đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Ấn Độ. Ngược lại, Ấn Độ cũng thu nhiều nguồn lợi từ đầu tư vào khu vực đang tăng trưởng
nhanh, hàng hóa Ấn Độ có thể thâm nhập khu vực Đông Nam Á với đặc điểm gần gũi với các thị trường
lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và cũng thuận lợi để vận chuyển đến khu vực Bắc Mỹ.
Những năm gần đây Ấn Độ đang tích cực đẩy mạnh thương mại, đầu tư với các nước qua việc thi
hành chính sách hướng Đông năm 1992, trong đó trọng tâm chính sách là thắt chặt mối quan hệ với các
thành viên tổ chức ASEAN bởi các hoạt động liên kết vốn đầu tư và hợp tác thương mại giữa ASEAN và
Ấn Độ. Khai thác hiệu quả nguồn lợi kinh tế từ khu vực là yếu tố quan trọng giúp Ấn Độ thực hiện các
mục tiêu kinh tế chính bao gồm: cải cách nền kinh tế, duy trì phát triển nhanh, phát triển bền vững và hòa
nhập vào nền kinh tế khu vực theo lời của thủ tướng Manmmohan Singh: “Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của
châu Á, Ấn Độ và Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế chính trong thế kỷ này”.
c. Lợi ích chính trị
Ấn Độ là một nước Nam Á nhưng từ lâu đã có những ảnh hưởng truyền thống tới khu vực Đông
Nam Á, các mặt chính trị, lịch sử, văn hóa, tôn giáo... đều có dấu ấn của Ấn Độ. Trong thời kỳ chiến tranh
lạnh, Ấn Độ là nước dẫn đầu phong trào không liên kết, hạn chế tham gia các tổ chức chính trị, đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Nền kinh tế tự cung tự
cấp đủ cho những nhu cầu cơ bản của quốc gia, cùng sự ám ảnh về hình ảnh một đất nước nửa thuộc địa
của Anh đã khiến Ấn Độ gần như đóng cửa nền kinh tế và khép mình với phương Tây5. Tuy dẫn đầu
phong trào không liên kết thời kỳ này nhưng Ấn Độ lại có mối quan hệ khá gần gũi với Liên Xô cả về
kinh tế và quân sự. Vì sự phụ thuộc vào phe Liên Xô, ủng hộ Việt Nam dân chủ cộng hòa và tồn tại mâu
thuẫn trong vấn đề Campuchia nên nghi ngại giữa Ấn Độ và các nước ASEAN đã cản trở quá trình hợp
tác và tìm hiểu lẫn nhau, đặc biệt sau khi Ấn Độ và Nga ký Hiệp định hợp tác hòa bình và hữu nghị.
Cho đến năm 1991, quan hệ Ấn Độ - ASEAN mới có những dấu hiệu cải thiện khi Liên Xô sụp
đổ, nền kinh tế Ấn Độ gặp nhiều khó khăn với khoản nợ nước ngoài 70 tỉ USD chiếm 23% GDP năm tài
khóa 1990-1991,
6
đồng thời khi đó tình hình khu vực Nam Á nhiều bất ổn, biên giới Ấn Trung không ổn
định Ấn Độ đã nhanh chóng chuyển hướng sang khu vực Đông Nam Á. Năm 1992, chính phủ Ấn Độ
5 Phạm Thủy Nguyên(2012), “Vài nét về chính sách hướng Đông của Ấn Độ”, trích Thúc đẩy quan hệ Việt Nam- Ấn
Độ trong bối cảnh mới, nxb Từ điển bách khoa, trang 195
6 Văn Ngọc Thành, Những thành tựu cải cách kinh tế Ấn Độ (1991 đến nay), Trích Nghiên cứu lịch sử , số 6-2011,
6/7/2013,
5
bắt đầu thực hiện chương trình hồi sinh kinh tế cùng ASEAN, với tinh thần hợp tác tích cực Ấn Độ đã
dành nhiều thành quả. Tháng 3/1993 Ấn Độ trở thành đối tác khu vực, năm 1995 trở thành đối tác đối
thoại toàn diện của ASEAN, năm 1996 trở thành thành viên của diễn đàn khu vực ASEAN(ARF). Năm
2003, hội nghị thượng đỉnh lần 2 tại Bali-Indonexia đánh dấu giai đoạn mới, mở rộng quan hệ kinh tế
theo chiều sâu và hợp tác an ninh khu vực. Và cuối cùng năm 2009, Ấn Độ đã ký kết thành công với
ASEAN hiệp định tự do thương mại FTA ASEAN- Ấn Độ mở ra cơ hội hợp tác mới cho cả hai phía.
Bên cạnh kinh tế, quan hệ Ấn Độ-ASEAN cũng được mở rộng trên phương diện an ninh quốc
phòng, khoa học kỹ thuật ở các cấp độ giữa Ấn Độ với từng thành viên và giữa Ấn Độ với ASEAN thống
nhất, như hợp tác trong hoạt động quốc phòng với Việt Nam (2000), Singapore(2003) và tổ chức tập trận
chung, huấn luyện sĩ quan giữa Ấn Độ và các thành viên ASEAN, khẳng định thành quả bước đầu trong
hợp tác kinh tế và xây dựng lòng tin về hình ảnh hòa bình hữu nghị qua hợp tác quốc phòng, an ninh với
các nước trong khu vực, đặc biệt Ấn Độ chú trọng khu vực biển Đông và eo Malacca.
Tại khu vực biển đông sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ rút quân khỏi căn cứ Subic của
Philipines và Nga rút quân khỏi vịnh Cam Ranh của Việt Nam, không gian khu vực sau đó được nhiều
nhà nghiên cứu gọi là một “khoảng trống quyền lực”, hai thế lực mạnh là Nhật Bản và Trung Quốc mong
muốn thay thế cùng mở rộng ảnh hưởng của mình đến khu vực. Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ đều là các
thế lực kinh tế lớn, bên cạnh xu hướng hợp tác chung hiện nay, luôn tồn tại sự cạnh tranh về lợi ích cũng
như không gian chiến lược. Đặc biệt quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc khá phức tạp, việc Trung Quốc
tiến tới xuống xuống phía Nam làm cho Ấn Độ rất quan ngại và phải tìm cách đối phó.
Khu vực ASEAN hiện nay đang tiến tới xây dựng cộng đồng thống nhất về kinh tế, chính trị, an
ninh, quân sự với vị thế ngày càng gia tăng trên trường quốc tế. Toàn bộ khu vực ASEAN và rộng hơn
đang đi theo xu hướng hợp tác và liên kết khu vực. Mọi vấn đề song phương hay đa phương cản trở quá
trình này đều ảnh hưởng đến lợi ích của khu vực nói chung và của Ấn Độ nói riêng. Ấn Độ sau khi giành
độc lập chưa hội tụ đủ sức mạnh và tập chung chiến lược vào khu vực Nam Á nên có phần “sao nhãng
Đông Nam Á”. Nhưng tình hình nay đã có nhiều thay đổi khi Ấn Độ tăng cường chính sách “hướng
Đông” sang “Đông tiến ” có phần mạnh mẽ hơn, đồng thời sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung Quốc cả
về kinh tế, chính trị đã dấy lên mối lo ngại về một số “căng thẳng chiến lược” của các nước Đông Nam Á,
khiến vai trò của Ấn Độ trong khu vực được ủng hộ 7. Ở một mức độ nào đó Ấn Độ đã hội nhập thành
công với khu vực và trở thành “đối trọng mềm” với Trung Quốc ở Đông Nam Á, đặc biệt sau khi gián
tiếp tham gia vào vấn đề biển Đông qua khai thác dầu khí. Vấn đề biển Đông trong thời gian tới sẽ là cơ
hội cho mối quan hệ ASEAN- Ấn Độ thêm gắn kết, tuy nhiên cũng đặt ra những thách thức to lớn cho lợi
ích chính trị của Ấn Độ tại khu vực.
Như vậy, có thể thấy Ấn Độ đã khẳng định vai trò và lợi ích chính trị của mình tại ASEAN- khu
vực quan trọng của thế giới với một nền kinh tế tăng trưởng và địa vị chính trị ngày được công nhận rộng
rãi trên trường quốc tế. Châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng hội tụ những điều kiện thuận lợi để
Ấn Độ thể hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, thúc đẩy vai trò chính trị quốc tế,
tham gia giải quyết các vấn đề khu vực và trên thế giới trước hết là khu vực biển Đông và Trung Á. Nếu
làm tốt vai trò an ninh của mình, Ấn Độ hoàn toàn tranh thủ được sự ủng hộ của các quốc gia Đông Nam
7 Lê Sơn, “Sự trỗi dậy đồng thời của Trung Quốc, Ấn Độ và quan hệ Trung Ấn”, 8/7/2013,
6
Á và không thể bỏ qua Trung Quốc, cho vai trò ủy viên thường trực hội đồng bảo an liên hợp quốc mà
nước này luôn mong muốn.
d. Lợi ích an ninh
An ninh năng lượng
Hiện tại, Ấn Độ là một trong hai cực tăng trưởng kinh tế chủ đạo của Châu Á tuy nhiên cũng là
một quốc gia thiếu năng lượng. Ấn Độ hiện cần nhập khẩu 80% nhu cầu dầu từ nước ngoài dẫn đến việc
lượng tiền thanh toán cho nhập khẩu dầu chiếm tới 1/3 lượng tiền chi tiêu8, mặc dù mô hình tăng trưởng
kinh tế của Ấn Độ dựa vào lĩnh vực dịch vụ nên cho đến nay đòi hỏi ít năng lượng hơn các nền kinh tế
Trung Quốc, Nhật Bản nhưng nhu cầu dầu vẫn tiếp tục tăng cao do mức sống tăng và nhu cầu sử dụng
cho giao thông của Ấn Độ trong thập niên tới. Theo báo cáo năng lượng thường niên của Exxonmobile
năm 2013, nhu cầu năng lượng của Ấn Độ sẽ gia tăng rất lớn trong thời gian tới, trung bình tăng 3 % hàng
năm9 vì vậy sức ép năng lượng của nền kinh tế lên chính phủ rất lớn. Trong năm 2012, bất chấp những
căng thẳng giữa phương Tây và Iran, Ấn Độ vẫn tiếp tục nhập khẩu dầu từ Iran đã chứng minh nhu cầu
cấp thiết về dầu mỏ của Ấn Độ 10. Nhìn chung, bối cảnh dự trữ dầu trong nước còn thấp, việc nhập khẩu
dầu còn phụ thuộc nhiều vào các nước không ổn định về chính trị, đòi hỏi Ấn Độ tích cực tìm cách đa
dạng hoá nguồn cung để tránh bị chi phối bởi những khu vực bất ổn, xây dựng các kho dự trữ chiến lược
và đầu tư vào các tài sản có liên quan đến dầu mỏ, trọng tâm của chính sách năng lượng này có khu vực
biển Đông – Đông Nam Á.
Theo điều tra thăm dò thì trữ lượng dầu mỏ ở khu vực biển Đông là đáng kể, biển Đông được coi
là một trong 5 bồn trũng dầu khí lớn của thế giới, các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là
các bồn trũng Bruney- Saba, Sarawark, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng và cửa
sông Châu Giang. Hiện nay hầu hết các nước trong khu vực đều là những nước khai thác và sản xuất dầu
khí từ biển như Trung Quốc, Việt Nam, Malayxia, Brunei, Indonexia, Thái Lan trong đó đã có
Indonexia là thành viên của Opec 11. Nhiều báo cáo được đưa ra để dự báo trữ lượng tiềm năng dầu khí
của khu vực. Báo cáo mới nhất của cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho thấy, Biển Đông có trữ
lượng tiềm năng dầu khí là 11 tỷ thùng và 190.000 tỷ m3 khí đốt vượt các dự báo trước đây12. Theo một
đánh giá khác chưa được kiểm chứng của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ
thùng, trong đó tại quần đảo Trường Sa lên tới 105 tỷ thùng. Việt Nam cũng là nước khai thác dầu lớn
trong khu vực và sở hữu nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí là Nam Côn Sơn và Cửu Long, việc
khai thác cũng khá thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỉ t