Mục đích của b hệ thống quản lý và xử lý nước thải khu công nghiệp (KCN), từ đó chỉ ra cách thức áp dụng loại hình kiểm toán hoạt động trong các cuộc kiểm toán nước thải KCN t Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra: việc đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong ài báo nhằm làm rõ cơ sở lý luận về kiểm toán hoạt động và phân tích ại Việt
công tác quản lý là tương đối khó khăn do khó xác định các yếu tố đầu vào của hoạt động quản lý nước thải
KCN. Mặt khác, KTV nên sử dụng yếu tố như chất lượng nước mặt, nước ngầm, khối lượng nước thải được
thu gom và chất lượng nước thải sau khi xử lý như là chỉ số để đánh giá tính hiệu lực của hoạt động thu
gom và xử lý nước thải. Bên cạnh đó, KTV nên xem xét khả năng thu gom tối đa nước thải của hệ thống
thu gom nước thải KCN và công suất xử lý nước thải tối đa của các nhà máy xử lý nước thải như là chỉ số
so sánh để đánh giá tính hiệu quả của hoạt động thu gom và xử lý nước thải.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 567 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực quản lý và xử lý nước thải khu công nghiệp: Tiếp cận từ quan điểm kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN28 Số 117 - tháng 7/2017
KIEÅM TOAÙN HOAÏT ÑOÄNG TRONG LÓNH VÖÏC
QUAÛN LYÙ VAØ XÖÛ LYÙ NÖÔÙC THAÛI KHU COÂNG NGHIEÄP:
tieáp caän töø quan ñieåm Kinh teá
TS. LÊ DOãN HOàI*
TS. NGUYỄN VIẾT HãNH*
ThS. NGUYỄN THị QUỳNH NGA*
*Phòng Kiểm toán Môi trường - Vụ Hợp tác Quốc tế, Kiểm toán nhà nước
Mục đích của bài báo nhằm làm rõ cơ sở lý luận về kiểm toán hoạt động và phân tích hệ thống quản lý và xử lý nước thải khu công nghiệp (KCN), từ đó chỉ ra cách thức áp dụng loại hình kiểm toán hoạt động trong các cuộc kiểm toán nước thải KCN tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra: việc đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong
công tác quản lý là tương đối khó khăn do khó xác định các yếu tố đầu vào của hoạt động quản lý nước thải
KCN. Mặt khác, KTV nên sử dụng yếu tố như chất lượng nước mặt, nước ngầm, khối lượng nước thải được
thu gom và chất lượng nước thải sau khi xử lý như là chỉ số để đánh giá tính hiệu lực của hoạt động thu
gom và xử lý nước thải. Bên cạnh đó, KTV nên xem xét khả năng thu gom tối đa nước thải của hệ thống
thu gom nước thải KCN và công suất xử lý nước thải tối đa của các nhà máy xử lý nước thải như là chỉ số
so sánh để đánh giá tính hiệu quả của hoạt động thu gom và xử lý nước thải.
Từ khóa: kiểm toán nước thải công nghiệp, tính kinh tế, tính hiệu quả, tính hiệu lực.
Conducting performance audit in the field of industrial wastewater treatment at industrial zones:
approach from an economic point of view
The article aims to clarify the rationale of performance and to analyze industrial wastewater management
and treatment systems, thus shows how to apply performance audit in the audits of industrial wastewater in
Vietnam. The results indicate that the assessment of the economy, efficiency and effectiveness in management
is relatively difficult, as it is difficult to determine the inputs of wastewater management activities in the
industrial zones. On the other hand, auditors should use factors such as surface water quality, groundwater,
volume of wastewater to be collected and quality of treated wastewater as indicators to assess the effectiveness
of collection activities and wastewater treatment. In addition, auditors should consider the maximum
capacity of wastewater collection from the industrial park wastewater collection system and the maximum
wastewater treatment capacity of the wastewater treatment plants as comparison index for evaluation the
effectiveness of wastewater collection and treatment.
keywords: Industrial wastewater auditing, the economy, efficiency and effectiveness.
1. Đặt vấn đề
Mặc dù kiểm toán môi trường (KTMT) nói
chung và kiểm toán nước thải khu công nghiệp
(KCN) nói riêng đã được phát triển mạnh mẽ ở
nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, ở nước
ta hiện nay KTMT vẫn là một lĩnh vực tương đối
mới [8;9]. Do đó, việc triển khai các cuộc KTMT
và kiểm toán nước thải KCN gặp nhiều khó khăn
và thách thức. Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam chưa
có một hướng dẫn kiểm toán cụ thể nào trong lĩnh
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 29Số 117 - tháng 7/2017
vực môi trường nói chung và kiểm toán nước thải
KCN nói riêng. Phần lớn các cuộc kiểm toán đã
thực hiện chủ yếu là các cuộc kiểm toán tài chính
và kiểm toán tuân thủ dựa vào các hướng dẫn của
INTOSAI, ASOSAI và một số quốc gia khác trên
thế giới. Tuy nhiên, hệ thống luật pháp về bảo vệ
môi trường (BVMT) ở mỗi quốc gia tương đối
khác nhau. Do đó, bài báo này tiến hành làm rõ
cơ sở lý luận về kiểm toán hoạt động (KTHĐ) và
phân tích hệ thống quản lý và xử lý nước thải KCN
ở nước ta, từ đó chỉ ra cách thức áp dụng loại hình
KTHĐ trong các cuộc kiểm toán nước thải KCN,
góp phần phát triển loại hình KTHĐ trong các
cuộc kiểm toán nước thải KCN tại Việt Nam.
2. Quan điểm kinh tế về tính kinh tế, tính hiệu
quả và tính hiệu lực
Trong bất kỳ quá trình hoạt động của một tổ
chức đều liên quan đến yếu tố đầu vào, quá trình
thực hiện và kết quả đầu ra. Trong đó; (i) Yếu tố
đầu vào là các nguồn lực như: con người, máy móc
thiết bị, nguyên liệu, công cụ..., được sử dụng để
tạo ra kết quả đầu ra đã được xác định hoặc mong
đợi; (ii) Quá trình thực hiện là quá trình sử dụng
các nguồn lực nhằm đạt được kết quả như mong
muốn, trong đó con người và quá trình làm việc
quyết định tỷ lệ nguồn lực tiêu hao trong quá trình
hoạt động để tạo ra kết quả; (iii) Còn kết quả đầu
ra là những sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu
cầu của con người. Chúng có thể được xác định
bằng số lượng, chất lượng và xem xét mức độ tác
động của chúng đối với xã hội và môi trường xung
quanh. Mối quan hệ giữa yếu tố đầu vào, quá trình
hoạt động và kết quả đầu ra được minh họa bằng
Sơ đồ 1.
Tính hiệu lực: Tính hiệu lực được xác định
như là kết quả cuối cùng của quá trình hoạt động,
là đánh giá mức độ thực hiện các mục tiêu, mục
đích đã được định trước cho mỗi hoạt động, dự
án hoặc một chương trình [1]. Mặc dù, có những
quan điểm khác nhau về tính hiệu lực với những
hệ thống đánh giá khác nhau, tuy nhiên phần lớn
đều có quan điểm chung là việc hoàn thành mục
tiêu đã đề ra. Như vậy, điểm quan trọng trong kiểm
toán tính hiệu lực (E1) là xem xét giữa kết quả kỳ
vọng với kết quả thực tế đạt được và có thể được
xác định như sau:
Từ (1), chúng ta có thể thấy, nếu E1=1 thì kết
quả thực tế bằng kết quả kỳ vọng và có thể kế luận
quá trình hoạt động của tổ chức, chương trình hay
dự án đạt được mục tiêu đặt ra. Nếu E1<1, thì kết
quả thực tế thấp hơn kết quả kỳ vọng và có thể kết
luận rằng quá trình hoạt động của tổ chức, chương
trình hay dự án không đạt được mục tiêu hay nói
cách khác là không có tính hiệu lực.
Tính hiệu quả: Tính hiệu quả là việc tối đa hóa
kết quả đầu ra trên cơ sở các nguồn lực được sử
dụng hoặc tối thiểu hóa nguồn lực được sử dụng
để tạo ra cùng một sản phẩm đầu ra. Tính hiệu quả
quan tâm đến mối quan hệ giữa nguồn lực được sử
dụng và đầu ra về mặt số lượng, chất lượng và thời
gian. Như vậy, tính hiệu quả liên quan mật thiết
giữa “yếu tố đầu vào” và “kết quả đầu ra” và được
thể hiện qua chỉ tiêu năng suất đạt được. Năng suất
là tỷ số giữa số lượng đầu ra được chấp nhận với
lượng yếu tố đầu vào được sử dụng để tạo ra chúng.
Do đó, việc đánh giá tính hiệu quả quá trình
hoạt động của một tổ chức, dự án hay một
chương trình có thể được xác định như sau:
Từ (2) chúng ta có thể thấy, nếu E2 =1 thì
đầu ra thực tế bằng kết quả đầu ra tối đa, do
đó có thể kết luận rằng quá trình hoạt động
của một tổ chức, chương trình hay dự án đạt
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN30 Số 117 - tháng 7/2017
được hiệu quả tối đa. Nếu tính hiệu quả E2>1, thì
đầu ra thực tế nhỏ hơn kết quả đầu ra tối đa, chúng
ta có thể kết luận rằng quá trình hoạt động của tổ
chức, chương trình, hay dự án không đạt được hiệu
quả tối đa.
Tính kinh tế: Tính kinh tế có thể được định
nghĩa là việc đánh giá chi phí cho các nguồn lực
đầu vào có sử dụng một cách tiết kiệm và hợp lý
hay không [5]. Trong đó các khoản chi phí đầu
vào bao gồm: việc lựa chọn các yếu tố đầu vào
thay thế, mức giá của các yếu tố đầu vào, phương
án kết hợp các yếu tố đầu vào, quy trình công
nghệ và quản lý... Như vậy, điểm quan trọng trong
kiểm toán tính kinh tế là so sánh các hạng mục chi
phí đầu vào thực tế với các hạng mục chi phí đầu
vào tối thiểu. Do đó, tính kinh tế (E3) có thể được
xác định như sau:
Từ (3) chúng ta có thể thấy, nếu E3>1 thì đầu
vào thực tế lớn hơn đầu vào tối thiểu, do đó chúng
ta có thể kết luận rằng chương trình,
dự án không đạt được tính kinh tế. Nếu
E3=1, thì đầu vào thực tế bằng với đầu
vào tối thiếu, do đó chúng ta có thể kết
luận rằng chương trình, dự án hay quá
trình hoạt động của tổ chức đạt được
tính kinh tế.
3. Hướng tiếp cận kiểm toán dựa
trên quan điểm kinh tế
3.1. Đối với hoạt động quản lý nước
thải KCN
Để KCN chính thức đi vào hoạt động,
trước hết KCN và các doanh nghiệp hoạt động
trong KCN phải lập Báo cáo đánh giá tác động môi
trường (ĐTM), kế hoạch BVMT được phê duyệt
bởi cơ quan có thẩm quyền như Bộ TN&MT hoặc
UBND tỉnh (Thông tư 35/2015/TT-BTNMT).
Trong đó, các dự án có quy mô lớn, dự án chủ
trương của Chính phủ, Quốc hội hoặc những
ngành nghề sản xuất kinh doanh thuộc thẩm
quyền của Bộ TN&MT, thì Bộ TN&MT có chức
năng nhiệm vụ thẩm định phê duyệt ĐTM. Các dự
án còn lại thuộc thẩm quyền cấp phép và phê duyệt
của UBND các tỉnh có dự án trên địa bàn quản lý.
Sau khi đã được cấp giấy phép đầu tư, khi Dự
án được xây dựng và hoàn thành, cơ quan chức
năng sẽ thẩm định và xem xét cấp giấy xác nhận
hoàn thành công trình BVMT (Thông tư 35/2015/
TT-BTNMT). Thông thường, Giấy chứng nhận
hoàn thành BVMT sẽ được cấp bởi cơ quan đã thẩm
định và phê duyệt ĐTM. Trong trường hợp UBND
tỉnh cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình đối
với các dự án đã được Bộ TN&MT phê duyệt ĐTM
thì phải có giấy ủy quyền của Bộ TN&MT. Sau khi
có giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT,
dự án đi vào hoạt động thử trong vòng 06 tháng,
các cơ quan chức năng thẩm định và cấp phép xả
thải vào nguồn nước (Luật Tài nguyên nước số
17/2012/QH13). Việc thanh tra, kiểm tra và giám
sát các hoạt động BVMT của KCN được thực hiện
bởi các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ,
Ban ngành và các cấp Chính quyền địa phương. Hệ
thống kiểm soát các hoạt động liên quan đến nước
thải KCN được mô tả bằng Sơ đồ 2:
Như vậy, mục tiêu của hoạt động quản lý nước
thải KCN là đảm bảo các bên liên quan thực hiện
đúng chức năng nhiệm vụ của mình và tuân thủ
những cam kết cũng như các quy phạm pháp luật
về BVMT. Do đó, trọng tâm của một cuộc kiểm
toán đối với hoạt động quản lý nước thải KCN
là xem xét mức độ tuân thủ các quy phạm pháp
luật về BVMT của các cơ quan quản lý liên quan:
(i) Quy trình và chất lượng thẩm định ĐTM, Kế
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 31Số 117 - tháng 7/2017
4. kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Đối với hoạt động quản lý nước thải KCN
Như đã đề cập ở trên, mục tiêu cơ bản của các
hoạt động quản lý là đảm báo các bên thực hiện
đúng chức năng nhiệm vụ của mình đối với các
hoạt động quản lý nước thải bao gồm; (i) Quy trình
và chất lượng thẩm định ĐTM, kế hoạch BVMT
hay đề án BVMT chi tiết; (ii) Quy trình và chất
hoạch BVMT, đề án BVMT; (ii) Quy trình và chất
lượng cấp giấy phép hoàn thành công trình; (iii)
Quy trình và chất lượng cấp giấy phép xả nước thải
vào nguồn nước; (iv) Các kết luận và thực hiện
các kiến nghị của công tác thanh kiểm tra, giám
sát của cơ quan chức năng. Mặt khác, để tiến hành
các hoạt động quản lý nước thải KCN, các cơ quan
chức năng cần phải sử dụng các yếu tố đầu vào như:
nguồn nhân lực, các phương tiện kỹ thuật cần thiết
phục vụ cho công tác thanh kiểm tra, giám sát. Do
đó, khi tiến hành đánh giá tính hiệu quả, tính kinh
tế trong hoạt động quản lý nước thải KCN, KTV
nên xem xét đến các khía cạnh và yếu tố đầu vào
như đã đề cập ở trên.
3.2. Hoạt động thu gom, xử lý nước thải KCN
Hệ thống thu gom và thoát nước KCN được tách
riêng thành hai hệ thống là hệ thống thoát nước
mưa và hệ thống thu gom nước thải KCN được
thiết kế và xây dựng theo cam kết trong ĐTM, kế
hoạch BVMT hoặc đề án BVMT của KCN đã được
phê duyệt. Nước thải sau khi thu gom được chuyển
về nhà máy xử lý nước thải tập trung để xử lý trước
khi xả vào nguồn tiếp nhận dưới sự giám sát của
hệ thống quan trắc tự động và quan trắc định kỳ.
Như vậy, mục tiêu của hoạt động thu gom và xử
lý nước thải là thu gom và xử lý hết nước thải và
đảm bảo chất lượng nước thải sau khi thải ra môi
trường đạt tiêu chuẩn như đã cam kết trong ĐTM,
kế hoạch BVMT hoặc đề án BVMT của KCN. Chất
lượng nước thải sau khi xử lý phải đảm bảo giảm
thiểu mức tối đa các tác động vào môi trường, con
người và hệ sinh thái. Do đó, khi tiến hành kiểm
toán cần thiết phải xem xét; (i) hệ thống thu gom
và quá trình vận hành của hệ thống xử lý nước
thải; (ii) chất lượng nước thải sau khi đã xử lý và
những tác động đến môi trường, con người và hệ
sinh thái. Mặt khác, để hệ thống thu gom và xử lý
nước thải đi vào hoạt động thì cần phải có các yếu
tố đầu vào như đội ngũ nhân lực để vận hành, điện,
các hóa chất cần thiết, các thiết bị giám sát theo dõi
để điều chỉnh hóa chất đầu vào đảm bảo chất lượng
nước thải đầu ra. Do đó, khi tiến hành, KTV nên
xem xét các yếu tố đầu vào để đánh giá tính kinh
tế, tính hiệu quả của các hoạt động thu gom và xử
lý nước thải KCN.
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN32 Số 117 - tháng 7/2017
lượng cấp giấy phép hoàn thành công trình; (iii)
Quy trình và chất lượng cấp giấy phép xả nước thải
vào nguồn nước; (iv) Các kết luận và thực hiện các
kiến nghị của công tác thanh kiểm tra, giám sát của
cơ quan chức năng. Chúng có thể được xác định
như là kết quả đầu ra của quá trình quản lý và sử
dụng để đánh giá tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả
của quá trình quản lý. Tuy nhiên, để đánh giá được
tính kinh tế, tính hiệu lực, tính hiệu quả đối với
công tác quản lý cần phải xác định được các yếu tố
đầu vào của hệ thống quản lý như: nguồn nhân lực,
hệ thống các quy phạm pháp luật liên quan đến các
hoạt động xả thải của KCN, các văn bản, quy trình
cấp phép, phê duyệt, các phương tiện kỹ thuật cần
thiết phục vụ cho công tác thanh kiểm tra, giám sát,
thời gian triển khai các hoạt động quản lý, trong
khi các yếu tố đầu vào này tương đối khó xác định.
4.2. Đối với hoạt động thu gom và xử lý nước
thải KCN
Mục tiêu cơ bản của hoạt động thu gom và xử lý
nước thải KCN là số lượng nước thải phát sinh từ
các hoạt động công nghiệp được thu gom và chất
lượng nước thải sau khi xử lý thải ra môi trường.
Trong đó, chất lượng nước thải sau khi xử lý xả
thải vào nguồn tiếp nhận có thể tác động vào môi
trường sống, gây ô nhiễm nước mặt và nước ngầm.
Do đó, khi tiến hành kiểm toán, ngoài việc xem xét
mức độ tuân thủ các cam kết và các quy phạm pháp
luật BVMT, KTV cũng cần xem xét đến những tác
động môi trường của nước thải sau xử lý đối với
nguồn nước mặt, nước ngầm và hệ sinh thái.
Đánh giá tính hiệu lực: Đánh giá tính hiệu lực
là việc so sánh giữa kết quả đầu ra thực tế và kết
quả đầu ra kỳ vọng đối với quá trình hoạt động
của một tổ chức, một chương trình hay một dự án.
Trong hoạt động thu gom và xử lý nước thải KCN,
mục tiêu cơ bản là giảm thiểu tối đa những tác
động mà nước thải công nghiệp gây ra đối với môi
trường và hệ sinh thái bao gồm: những tác động
đến nguồn nước mặt, nước ngầm, hệ sinh thái, sức
khỏe con người... Trên thực tế, hầu hết những cam
kết BVMT của các KCN không lượng hóa mức độ
tác động ngay từ khâu xây dựng và lập ĐTM, kế
hoạch BVMT hay đề án BVMT chi tiết.
Mặc dù khó khăn khi đánh giá tính hiệu lực
thông qua tác động môi trường của hoạt động thu
gom và xử lý nước thải KCN, KTV vẫn có thể đánh
giá tính hiệu lực thông qua số lượng nước thải được
thu gom và chất lượng nước thải sau khi đã xử lý.
Điều này là do số lượng nước thải được thu gom
và chất lượng nước thải đầu ra được xác định ngay
từ khâu xây dựng và lập kế hoạch BVMT và chúng
được xác định như mục tiêu ban đầu của hoạt động
thu gom và xử lý nước thải.
Đánh giá tính hiệu quả: Đánh giá tính hiệu quả
là việc so sánh giữa đầu ra thực tế và đầu ra tối đa
quá trình hoạt động của một tổ chức, một chương
trình hay một dự án với cùng lượng yếu tố đầu vào.
Thông thường việc đánh giá tính hiệu quả là xem
xét lượng sản phẩm đầu ra của quá trình hoạt động.
Đối với hoạt động thu gom và xử lý nước thải, thì
lượng đầu ra thông thường là số lượng nước thải
được thu gom và xử lý trên các yếu tố đầu vào như
lượng hóa chất để xử lý nước thải, điện, nhân công,
thiết bị máy móc, vv... Do đó, khi đánh giá tính
hiệu quả của hoạt động thu gom và xử lý nước thải,
KTV nên xem xét giữa công suất thiết kế hoạt động
tối đa trên yếu tố đầu vào dự kiến khi lập kế hoạch
so với khối lượng nước thải thực tế được xử lý trên
yếu tố đầu vào thực tế. Tuy nhiên, KTV cũng cần
lưu ý bản thân các yếu tố đầu vào là không đồng
nhất. Do đó, KTV nên đồng nhất các yếu tố đầu
vào bằng cách xác định các khoản chi phí bỏ ra đối
với các yếu tố đầu vào hay nói cách khác, KTV nên
xem xét tính hiệu quả của các hoạt động thu gom
và xử lý nước thải trong khái niệm hiệu quả kinh tế.
Bên cạnh đó, mục tiêu của hoạt động thu gom
nước thải và mục tiêu của các hoạt động xử lý là
khác nhau, đôi khi được quản lý và vận hành bởi
các tổ chức khác nhau. Trong đó, mục tiêu của các
hoạt động thu gom nước thải là số lượng nước thải
được thu gom hết, không rò rỉ, còn mục tiêu của
hoạt động xử lý nước thải là toàn bộ lượng nước
thải đã được thu gom sau khi xử lý. Do đó, trong
trường hợp hoạt động thu gom và xử lý nước thải
được vận hành và quản lý bởi hai tổ chức khác
nhau, KTV nên đánh giá tính hiệu quả riêng biệt
đối với hai hoạt động này để xác định trách nhiệm
của các bên tham gia một cách minh bạch.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 33Số 117 - tháng 7/2017
Đánh giá tính kinh tế: Đánh giá tính kinh tế
là việc so sánh giữa chi phí đầu vào tối thiểu và chi
phí đầu vào thực tế để vận hành hệ thống thu gom
và xử lý nước thải hoạt động. Trong đó, chi phí đầu
vào cho hoạt động thu gom và xử lý nước thải bao
gồm các khoản chi phí: nhân công, điện, các loại
hóa chất đầu vào và khấu hao tài sản cố định, thuế,
v.v... Do đó, ngoài việc xác định các khoản mục chi
phí đầu vào để vận hành hệ thống thì KTV cũng
cần phải xác định các khoản chi phí đầu vào tối
thiểu. Trong quá trình xác định chi phí đầu vào tối
thiểu, KTV nên xem xét hai khía cạnh là số lượng
đầu vào tối thiểu để vận hành hệ thống là bao nhiêu
và giá của các khoản mục các yếu tố đầu vào hiện
tại đã ở mức thấp nhất chưa. Sau khi xác định được
tổng chi phí đầu vào tối thiểu, KTV so sánh với chi
phí đầu vào thực tế mà hệ thống đang hoạt động.
5. kết luận và kiến nghị
Cho đến nay, kiểm toán môi trường là một trong
những công cụ quản lý hữu hiệu trong công tác
bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở nhiều
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, ở nước ta hiện
nay, nhận thức về KTMT và triển khai, áp dụng các
cuộc KTMT theo loại hình kiểm toán hoạt động
vẫn gặp nhiều khó khăn. Do đó, nghiên cứu này với
mục đích là làm rõ cơ sở lý luận về kiểm toán hoạt
động và phân tích hệ thống quản lý và xử lý nước
thải KCN ở nước ta, từ đó chỉ ra cách thức áp dụng
loại hình kiểm toán hoạt động trong các cuộc kiểm
toán nước thải KCN, nhằm góp phần phát triển
loại hình kiểm toán hoạt động trong các cuộc kiểm
toán nước thải KCN tại Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc đánh giá tính
kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong công tác quản lý
là tương đối khó khăn, do khó xác định các yếu tố
đầu vào một cách riêng biệt đối với một KCN khi
tiến hành kiểm toán. Do đó, đối với hoạt động quản
lý, KTV nên tập trung vào tính tuân thủ những quy
phạm pháp luật về BVMT và xác định trách nhiệm
của các tổ chức có liên quan trong quá trình thực
thi nhiệm vụ nhà nước về quản lý môi trường.
Mặt khác, đối với các hoạt động thu gom và xử
lý nước thải, KTV nên xem xét chất lượng nước
mặt, nước ngầm, số lượng nước thải được thu
gom hết và chất lượng nước thải sau khi xử lý đã
được cam kết trong ĐTM, đề án BVMT hay kế
hoạch BVMT như là chỉ số cơ bản để đánh giá
tính hiệu lực của hoạt động động thu gom và xử
lý nước thải. Bên cạnh đó, thì khả năng thu gom
nước thải tối đa và công suất xử lý nước thải tối đa
có thể được xem xét như là chỉ số so sánh để đánh
giá tính hiệu quả của hoạt động thu gom và xử lý
nước thải. Các hạng mục như chi phí nhân công,
chi phí hóa chất, chi phí điện vận hành hệ thống,
chi phí khấu hao, v.v..., có thể được sử dụng như
là chỉ số đ