Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, thị trường và phạm vi hoạt động của các Tập đoàn, Tổng công ty đa quốc gia ngày càng được mở rộng. Kéo theo đó, quy mô của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được luân chuyển giữa các quốc gia ngày một lớn. Chính dòng vốn đầu tư FDI này đã và đang đóng vài trò ngày càng quan trọng trong cơ cấu các
nguồn lực đầu tư, phát triển nền kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, trong
đó có Việt Nam.
Không thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng của nguồn vốn FDI đối với sự phát triển kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn qua. Tuy nhiên, dưới góc độ kiểm tra, giám sát tài chính công, chúng ta cũng cần giữ
thái độ thận trọng đối với những mặt trái và rủi ro tiềm ẩn của nguồn vốn đầu tư FDI lên nền kinh tế.
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực thanh tra, kiểm toán chống chuyển giá tại một số quốc gia
trên thế giới cho thấy một số bài học quan trọng mà Việt Nam có thể lĩnh hội để nâng cao chất lượng, hiệu
quả và hiệu lực của công tác thanh tra, kiểm toán chống chuyển giá do các cơ quan chức năng, trong đó có
Kiểm toán nhà nước thực hiện.
7 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 530 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm chống chuyển giá ở một số quốc gia và bài học cho kiểm toán nhà nước về kiểm toán chuyển giá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
19NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 114 - tháng 4/2017
*Văn phòng Kiểm toán nhà nước
KINH NGHIEÄM CHOÁNG CHUYEÅN GIAÙ ôû MOÄT sOÁ
qUOÁC GIA VAØ bAØI HOÏC CHO KIEÅM TOAÙN
NHAØ NÖôÙC VEà KIEÅM TOAÙN CHUYEÅN GIAÙ
ThS. LÊ MẠNH CƯờNG*
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, thị trường và phạm vi hoạt động của các Tập đoàn, Tổng công ty đa quốc gia ngày càng được mở rộng. Kéo theo đó, quy mô của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được luân chuyển giữa các quốc gia ngày một lớn. Chính dòng vốn đầu tư FDI này đã và đang đóng vài trò ngày càng quan trọng trong cơ cấu các
nguồn lực đầu tư, phát triển nền kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, trong
đó có Việt Nam.
Không thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng của nguồn vốn FDI đối với sự phát triển kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn qua. Tuy nhiên, dưới góc độ kiểm tra, giám sát tài chính công, chúng ta cũng cần giữ
thái độ thận trọng đối với những mặt trái và rủi ro tiềm ẩn của nguồn vốn đầu tư FDI lên nền kinh tế.
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực thanh tra, kiểm toán chống chuyển giá tại một số quốc gia
trên thế giới cho thấy một số bài học quan trọng mà Việt Nam có thể lĩnh hội để nâng cao chất lượng, hiệu
quả và hiệu lực của công tác thanh tra, kiểm toán chống chuyển giá do các cơ quan chức năng, trong đó có
Kiểm toán nhà nước thực hiện.
Từ khóa: Chuyển giá, kiểm toán chống chuyển giá.
Some international transfer pricing experiences and lessons for the State Audit Office of Vietnam in
transfer pricing auditing
In the context of the global economic integration, corporations’ market and operational scopes are
increasingly broadening, which essentially increases the flow of foreign direct investment (FDI) among
nations. This inflow of FDI capital has been playing a more and more important role among nations’
development and investment resources, especially for such developing economy like Vietnam. There is no
doubt regarding the role and importance of FDI capital to Vietnam’s economic development over the period,
however, from the public finance supervision and monitoring perspective, we also need to reserve a certain
caution to the adverse effects and potential risks of FDI inflows to the economy.
Studying international anti-transfer pricing inspection and auditing experiences in some countries
around the world reveals some important lessons that Vietnam can take to improve quality, efficiency and
effectiveness of anti-transfer pricing inspecting and auditing activities’ that are carried out by the functional
state agencies, including the State Audit Office of Vietnam.
Key words: Transfer pricing, transfer pricing auditing.
20
NHAÄN DIEÄN VAØ ÑOÁI PHOÙ VÔÙI VAÁN ÑEÀ CHUYEÅN GIAÙ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 114 - tháng 4/2017
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện
nay, thị trường và phạm vi hoạt động của các Tập
đoàn, công ty đa quốc gia ngày càng được mở rộng,
kéo theo đó, quy mô của dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) được luân chuyển giữa các quốc
gia ngày một lớn. Chính dòng vốn đầu tư FDI này
đã và đang đóng vài trò ngày càng quan trọng trong
cơ cấu các nguồn lực đầu tư, phát triển nền kinh tế
của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát
triển, trong đó có Việt Nam. Theo thống kê sơ bộ,
Việt Nam hiện có khoảng trên 15.000 dự án được
đầu tư từ nguồn vốn FDI còn hiệu lực với tổng số
vốn đăng ký đạt khoảng 219 tỷ USD, trong đó vốn
thực hiện đạt khoảng 106 tỷ USD, tương đương
khoảng 53,4% GDP Việt Nam năm 2016 tính theo
giá hiện hành (4.502,7 nghìn tỷ đồng).
Không thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng
của nguồn vốn FDI đối với sự phát triển kinh tế
Việt Nam trong giai đoạn qua. Tuy nhiên, dưới
góc độ kiểm tra, giám sát tài chính công, chúng ta
cũng cần giữ thái độ thận trọng đối với những mặt
trái và rủi ro tiềm ẩn của nguồn vốn đầu tư FDI
lên nền kinh tế. Thực tế cho thấy các dự án FDI đã
và đang bộc lộ một số ảnh hưởng tiêu cực lên nền
kinh tế Việt Nam, nổi bật có thể kể đến tình trạng
cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp
nội địa, gây tác động xấu đến môi trường đầu tư,
hiện tượng chuyển giá, trốn thuế, gây thất thu ngân
sách Trên thực tế, Chính phủ Việt Nam cũng đã
có nhiều nỗ lực trong công cuộc chống chuyển giá
trong thời gian qua và bước đầu đã đem lại những
kết quả nhất định. Kết quả thanh tra tại một số
doanh nghiệp FDI lớn như Metro, Keangnam-Vina
đã giúp các cơ quan chức năng xử lý, thu hồi về
NSNN hàng trăm tỷ đồng. Trong hoạt động kiểm
toán của KTNN cũng đã phát hiện và xử lý một số
trường hợp có tính chất chuyển giá, tuy nhiên đa
phần là của các doanh nghiệp trong nước có quy
mô vừa và nhỏ, địa bàn hoạt động trải qua các địa
phương có chính sách đãi ngộ thuế không đồng
nhất. Nhìn chung, các quy định tại hệ thống văn
bản pháp quy hiện hành của Việt Nam còn hạn chế
quyền hạn của cơ quan thuế, thanh tra, kiểm toán;
hình thức xử lý đối với doanh nghiệp có hành vi
chuyển giá tránh thuế còn quá nhẹ, quy định xác
định giá thị trường chưa được linh hoạt đối với
một số doanh nghiệp có giao dịch liên kết... Do
21NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 114 - tháng 4/2017
vậy, chưa thực sự hạn chế tối đa các hành vi chuyển
giá của doanh nghiệp liên kết, quá trình thực hiện
của người nộp thuế cũng như cơ quan quản lý thuế
chưa thực sự thuận tiện.
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực
thanh tra, kiểm toán chống chuyển giá tại một số
quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Australia và
Nhật Bản cho thấy một số bài học quan trọng mà
Việt Nam có thể lĩnh hội để nâng cao chất lượng,
hiệu quả và hiệu lực của công tác thanh tra, kiểm
toán chống chuyển giá do các cơ quan chức năng,
trong đó có Kiểm toán nhà nước thực hiện.
1. Trung Quốc
Tại Trung Quốc, về nguyên tắc, Cơ quan Thuế
vụ của Trung Hoa lục địa công nhận các Hướng dẫn
của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)
về chống chuyển giá cũng như các phương pháp
xác định chuyển giá tại Hướng dẫn này của OECD.
Quá trình lựa chọn các cuộc kiểm toán chống
chuyển giá
Tại Trung Quốc, quá trình này được tiến hành
và quyết định thống nhất tập trung. Việc lựa chọn
cuộc thanh tra, kiểm toán chống chuyển giá sẽ dựa
trên cơ sở các thông tin về: lợi nhuận của doanh
nghiệp, tín hiệu cho thấy doanh nghiệp thực hiện
tái cơ cấu, các đánh giá dựa trên trọng yếu rủi ro
của Cơ quan Thuế, tính chất và quy mô của các
giao dịch liên kết giữa các bên, chu kỳ kiểm toán
thông thường, kết quả các cuộc kiểm toán thuế
trước đó tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các giao
dịch trong ngành công nghiệp dịch vụ đang ngày
càng được các cơ quan chức năng chú trọng trong
việc lựa chọn kiểm toán về chuyển giá.
Đối tượng chính của các cuộc kiểm toán chống
chuyển giá
Khi lựa chọn đối tượng để tiến hành các cuộc
kiểm toán chống chuyển giá, chính quyền Trung
Quốc tập trung vào các doanh nghiệp hiện đang
hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Trung Quốc
nhưng đồng thời cũng có cơ sở kinh doanh, chi
nhánh tại Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu
và các quốc gia được coi là thiên đường thuế quan
(như Ireland, luxembourg, Panama, các đảo quốc
vùng Caribe, British Virgin Islands...). Trong đó,
các cơ quan thanh tra, kiểm toán về chuyển giá
của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực
sản xuất ô-tô công nghệ sinh học, sản xuất hàng
tiêu dùng, hệ thống phân phối, bán lẻ (siêu thị),
sản xuất và chế biến dược phẩm, bất động sản,
phát triển công nghệ. Trong những năm gần đây,
các công tác thanh kiểm tra, kiểm toán về chuyển
giá của Trung Quốc đang được mở rộng sang các
các công ty nội địa và các khoản đầu tư ra nước
ngoài. Công tác thanh kiểm tra, kiểm toán chuyển
giá cũng chú trọng hơn đến các giao dịch tài sản vô
hình giữa các Tập đoàn, các khoản chuyển nhượng
vốn chủ sở hữu, cũng như các mô hình kinh doanh
có vốn chủ yếu là từ vốn vay, nợ.
Phương pháp tác nghiệp chống chuyển giá
Về mặt kỹ thuật nghiệp vụ, Trung Quốc không
bắt buộc các công ty trong đối tượng thanh kiểm
tra, kiểm toán về chuyển giá phải sử dụng các dữ
liệu hoặc giao dịch tương đương trong nước để
so sánh, mà sẽ yêu cầu so sánh với các công ty đại
chúng tương đồng trong cùng khu vực. Các dữ
liệu về tài chính tương đương sẽ được đem ra để
đối chiếu, so sánh trong phạm vi từ 3-5 niên độ tài
chính. Một số chỉ tiêu về mức lợi nhuận thường
được đối chiếu, so sánh là tỷ lệ Lợi nhuận trên tổng
chi phí, hoặc Hệ số biên lợi nhuận hoạt động.
Trong nỗ lực chống chuyển giá của mình, Trung
Quốc tích cực tiến hành triển khai chương trình
kiểm toán chống chuyển giá, áp dụng rộng rãi
chương trình Thoả thuận xác định giá trước (APA)
ở cấp độ song phương và đa phương cho các công
ty kinh doanh trên lãnh thổ Trung Quốc, đồng
thời chú trọng hơn vào phương thức quản lý vấn
đề chuyển giá của các công ty thông qua hình thức
dự báo. Việc chú trọng sử dụng hình thức dự báo
để quản lý đồng nghĩa với việc các cơ quan thuế của
Trung Quốc tích cực tiến hành đánh giá sơ bộ đối
22
NHAÄN DIEÄN VAØ ÑOÁI PHOÙ VÔÙI VAÁN ÑEÀ CHUYEÅN GIAÙ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 114 - tháng 4/2017
với các công ty trước khi tiến hành kiểm toán, qua
đó cho phép các công ty quyết định việc thực hiện
điều chỉnh cách tính thuế thu nhập cho phù hợp
với quy định của nhà nước, trước khi tiến hành
kiểm toán.
2. Australia
Tại Australia, chống chuyển giá đang trở thành
một vấn đề ngày càng có tính thời sự, và các cơ quan
chức năng đang tìm cách tiếp cận vấn đề này thông
qua những quy định pháp lý mới có hiệu lực mạnh
hơn, dựa trên đánh giá những lợi ích của chuyển giá
liên quan tới các điều kiện (giao dịch) độc lập. Cơ
quan Thuế quan của Australia có nhiệm vụ chủ trì
trong khuôn khổ nỗ lực chống xói mòn nền tảng và
dịch chuyển lợi tức (Base Erosion and Profit Shifting
- BEPS) của tổ chức OECD. Cụ thể, bộ phận chuyên
trách của cơ quan thuế Australia về chống chuyển
giá sẽ tập trung phối hợp với các đối tác quốc tế để
xác định “mục đích” thực của các doanh nghiệp
Australia tại các lãnh thổ có mức thuế quan thấp;
triển khai chương trình chống xói mòn nền tảng và
dịch chuyển lợi tức BEPS thông qua các hoạt động
tuân thủ, bao gồm các cuộc kiểm toán song phương
và đa phương, với sự hỗ trợ của hệ thống quy định
mới được sửa đổi và ban hành về chống chuyển giá;
nắm bắt xu thế số hoá của nền kinh tế Australia cũng
như mối quan hệ của xu thế này đối với hệ thống
thuế quan của quốc gia; đồng thời hỗ trợ phát triển
các chính sách về chống chuyển giá của chính phủ
Australia cũng như của tổ chức OECD.
Quá trình lựa chọn các cuộc kiểm toán chống
chuyển giá
Tại Australia, quá trình này được Cơ quan Thuế
vụ Australia tiến hành và quyết định thông qua một
cơ sở dữ liệu bao gồm thông tin liên quan đến chuyển
giá của tất cả các đối tượng có nghịa vụ nộp thuế,
từ đó xây dựng hệ thống xác định rủi ro. Hệ thống
này sẽ tự động đưa ra các cảnh báo rủi ro trong các
trường hợp sau: các công ty kinh doanh thua lỗ hoặc
có mức lợi nhuận thấp, các doanh nghiệp tham gia
vào các giao dịch có mức rủi ro tiềm tàng chuyển giá
cao (ví dụ như các giao dịch liên quan đến sở hữu
trí tuệ, bản quyền), các doanh nghiệp không phát
sinh một số giao dịch điển hình mà các công ty đa
quốc gia Australia thường có (như doanh thu bản
quyền), các doanh nghiệp thông báo về việc đã/đang
tổ chức tái cơ cấu. Thông thường, việc lựa chọn cuộc
kiểm toán chống chuyển giá sẽ dựa trên cơ sở thông
23NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 114 - tháng 4/2017
tin về: lợi nhuận của doanh nghiệp, dấu hiệu cho
thấy doanh nghiệp thực hiện tái cơ cấu, các đánh giá
dựa trên trọng yếu rủi ro của cơ quan chức năng về
chống chuyển giá, tính chất và quy mô của các giao
dịch liên kết giữa các bên, chu kỳ kiểm toán thông
thường, kết quả các cuộc kiểm toán thuế trước đó
tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các giao dịch trong
ngành công nghiệp dịch vụ đang ngày càng được cơ
quan thanh tra, kiểm toán lưu ý lựa chọn làm đối
tượng kiểm tra.
Đối tượng chính của các cuộc thanh tra, kiểm
toán về chống chuyển giá
Tại Australia, đối tượng chủ yếu của các cuộc
thanh tra, kiểm toán về chống chuyển giá chủ yếu
liên quan đến các doanh nghiệp kinh doanh tại
Australia nhưng đồng thời giao dịch với các đối tác
lớn từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh Quốc và
New Zealand. Tuy nhiên, gần đây các nỗ lực thanh
tra, kiểm tra, kiểm toán chống chuyển giá cũng tập
trung nhiều vào các giao dịch với những lãnh thổ
có mức thuế quan thấp. Các cuộc thanh tra, kiểm
toán chống chuyển giá chủ yếu tập trung ở các lĩnh
vực có các giao dịch có liên quan đến tài sản vô
hình, cung ứng dịch vụ nội bộ, thoả thuận vay,
nợ và đảm bảo, các thoả thuận về tiền bản quyền,
thương mại điện tử, tái cơ cấu doanh nghiệp, tái cơ
cấu chuỗi cung ứng, chuyển nhượng sở hữu trí tuệ,
khai thác mỏ, sản xuất dược phẩm và ngành công
nghiệp sản xuất phương tiện ô-tô, mô-tô. Cơ quan
thuế vụ của Australia cũng theo dõi ngày càng chặt
chẽ hơn các doanh nghiệp có lỗ kéo dài hoặc lợi
nhuận thấp qua nhiều năm liền.
Phương pháp tác nghiệp chống chuyển giá
Các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán
chống chuyển giá của Australia chủ yếu dựa sử dụng
phương pháp so sánh, đối chiếu dữ liệu với các doanh
nghiệp nội địa để đưa ra các so sánh, đối chiếu tương
đương khi kiểm toán, kiểm tra. Song song với việc
duy trì một bộ cơ sở dữ liệu về các giao dịch tương
đương trong khu vực để làm chuẩn so sánh, Australia
cũng tập trung vào các giao dịch tương đương sẵn
có trong nước, đồng thời đặt mối quan hệ tương đối
của các giao dịch nội địa trong tổng quan dữ liệu các
giao dịch tương đương trong khu vực để có đánh giá
phù hợp và chính xác hơn. Trong những trường hợp
cần thiết, cơ quan thuế vụ của Australia cũng sẽ tiến
hành phân tích độc lập để xác định các công ty nội
địa tương đương nhằm phục vụ mục đính thiết lập
chuẩn so sánh. Trong nỗ lực chống chuyển giá của
mình, Australia tích cực tiến hành triển khai chương
trình kiểm toán chống chuyển giá, áp dụng rộng rãi
chương trình Thoả thuận xác định giá trước (APA)
đơn phương, song phương và đa phương cho các
công ty kinh doanh trên lãnh thổ Australia. Đến nay,
Australia đã đạt thoả thuận xác định giá trước (APA)
song phương với cơ quan thuế vụ của Hoa Kỳ, Anh
Quốc, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thuỵ Sĩ, New
Zealand, Đan Mạch và Singapore.
3. Nhật Bản
Chính phủ Nhật Bản xác định công tác chống
chuyển giá là hoạt động quan trọng, cần được ưu
tiên trong việc quản lý và điều hành. Do vậy, Nhật
Bản đã chủ động kịp thời sửa đổi, bổ sung hệ thống
pháp lý, văn bản, chính sách về chuyển giá trong
bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa. Năm 2010 Nhật
Bản đã tiến hành sửa đổi một số chế độ thuế và
ban hành hệ thống hồ sơ, mẫu biểu phục vụ công
tác chống chuyển giá, bắt buộc các doanh nghiệp
phải kê khai các giao dịch liên quan đến doanh
nghiệp nước ngoài theo mẫu biểu hướng dẫn. Qua
đó, kiểm tra, đánh giá chính xác việc phân phối thu
nhập trong Tập đoàn, đảm bảo thuận lợi cho việc
điều tra chống chuyển giá giữa công ty mẹ và công
ty con. Quá trình vận dụng và cái cách chế độ thuế
chống chuyển giá của Nhật Bản trong thời gian qua
có một số đặc trưng đáng lưu ý, cụ thể như sau:
(1) Đối tượng doanh nghiệp bị điều tra thuế
chuyển dần từ các doanh nghiệp có yếu tố vốn
nước ngoài (chủ yếu của Mỹ, châu Âu) sang các
doanh nghiệp trong nước;
(2) Đối tượng giao dịch bị điều tra chuyển từ
các doanh nghiệp từ Mỹ, châu Âu sang các doanh
24
NHAÄN DIEÄN VAØ ÑOÁI PHOÙ VÔÙI VAÁN ÑEÀ CHUYEÅN GIAÙ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 114 - tháng 4/2017
nghiệp châu á (chủ yếu là các doanh nghiệp của
Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong và
các nước ASEAN);
(3) Loại hình kinh doanh bị điều tra chuyển từ
giao dịch liên quan tới tài sản hữu hình (sản phẩm)
sang các giao dịch liên quan đến tài sản vô hình (lợi
nhuận, tiền gửi, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật,
bản quyền, thương hiệu, dịch vụ);
(4) Phương pháp áp dụng xác định chuyển giá
chuyển từ chỗ chỉ sử dụng 3 phương pháp cơ bản
(Phương pháp định giá trên cơ sở giá tự do có thể
so sánh được, Phương pháp giá bán lại, và Phương
pháp Giá vốn cộng lãi) sang kết hợp sử dụng thêm
các phương pháp khác (Phương pháp chiết tách lợi
nhuận và Phương pháp so sánh lợi nhuận ròng);
(5) Chuyển từ chủ yếu sử dụng chế độ thuế
chuyển giá sang sử dụng chế độ thỏa thuận giá trước
(APA) và phương pháp xác định giá giao dịch.
4. Một số dấu hiệu của hiện tượng chuyển giá
Thứ nhất, về cơ chế giá giao dịch nội bộ: (1) Trường
hợp công ty con ở nước có mức thuế suất thấp hơn
ở công ty mẹ thì giá nhập khẩu linh kiện, nguyên
vật liệu từ công ty mẹ thấp hơn giá thông thường; và
ngược lại, giá bán hàng hóa của công ty con cho công
ty mẹ lại có mức giá cao hơn mức giá thông thường.
Bản chất của phương pháp này là chuyển khoản lợi
nhuận chịu thuế từ công ty mẹ, nơi có mức thuế suất
cao sang công ty con, nơi có mức thuế suất thấp hơn;
(2) Trường hợp công ty con
ở nước có mức thuế suất cao
hơn công ty mẹ thì cơ chế giá
giao dịch nội bộ sẽ ngược lại;
Thứ hai, về đối tượng điều
tra chuyển giá tập trung vào các
doanh nghiệp: (1) Có giao dịch
với doanh nghiệp liên quan
(về vốn, kỹ thuật, nhân sự)
với kim ngạch lớn hoặc nhiều
chủng loại; (2) Thua lỗ hoặc lợi
nhuận thấp trong thời gian dài
hoặc lợi nhuận biến động lớn
giữa các năm; (3) Có lợi nhuận
thấp hơn so với mặt bằng các doanh nghiệp kinh
doanh cùng ngành nghề; (4) Có hoạt động giao dịch
với đối tác ở các nước có mức thuế thấp hoặc không
phải chịu thuế (hay còn gọi là các thiên đường thuế;
(5) Không thực hiện các báo cáo liên quan về kết quả
hoạt động theo luật định hoặc không chuẩn bị tài liệu
báo cáo định kỳ; (6) Tiến hành các giao dịch vi phạm
nguyên tắc giao dịch giữa các doanh nghiệp độc lập.
5. Một số bài học kinh nghiệm về chống chuyển
giá cho Việt Nam
Nhìn chung, kinh nghiệm về chống chuyển giá tại
một số quốc gia tiên tiến trên thế giới cho thấy một số
điểm nổi bật mà KTNN Việt Nam có thể nghiên cứu
và rút ra một số bài học quan trọng như sau:
Thứ nhất, chú trọng phát triển nguồn lực: công tác
chống chuyển giá đòi hỏi trình độ chuyên môn, kỹ
năng nghiệp vụ tương đối cao và toàn diện. Do đó,
các cơ quan chức năng chống chuyển giá của Việt
Nam, trong đó có Kiểm toán nhà nước cần có sự
đầu tư, tập trung thích đáng về nguồn lực cả về con
người lẫn hệ thống, phương pháp, quy trình, chuẩn
mực nhằm tăng cường, phát triển năng lực chống
chuyển giá;
Thứ hai, xây dựng phương pháp và tiêu chí: khi
kiểm toán chuyển giá, KTNN cần tiến hành phân
tích và xây dựng được phương pháp và tiêu chí lựa
chọn các đối tượng, lĩnh vực, ngành nghề tiềm ẩn
25NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 114 - tháng 4/2017
rủi ro cao về chuyển giá, để qua đó có thể phân
bổ nguồn lực một cách hợp lý để tập trung chống
chuyển giá. Cụ thể tại Việt Nam, các doanh nghiệp
liên doanh, sản xuất, chế biến dược phẩm, thiết bị
công nghiệp, điện tử, cung cấp trang thiết bị xây
dựng, chuỗi cung ứng, phân phối hàng tiêu dùng,
kinh doanh chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ là
những lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro về chuyển giá
mà các cơ quan chức năng phải đặc biệt quan tâm,
theo dõi sát sao;
Thứ ba, vấn đề thông tin: KTNN khi kiểm toán
chuyển giá cần tập trung thu thập thông tin, đánh
giá hiệu quả của các mảng kinh doanh chính tạo ra
lợi nhuận chủ yếu của các doanh nghiệp, để qua đó
có được những đánh giá mang tính đa chiều dựa
trên tương quan trọng yếu, rủi ro và lợi nhuận; tăng
cường áp dụng phương pháp So sánh lợi nhuận ròng
(hay còn gọi là Transactional Net Margin Method);
Thứ tư, tham chiếu giao dịch tương đương: KTNN
khi kiểm toán chuyển giá cũng cần tăng cường sử
dụng, tham chiếu các giao