Năm 1986 trở về truớc nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu khủng hoảng trầm trọng kéo dài, mức sống nhân dân thấp.
Đứng trước bối cảnh đó con đường đúng đắn duy nhất để đổi mới đất nước là đổi mới nền kinh tế. Tại đại hội VI (tháng 12/1986) của đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế bao cấp tràn lan và tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị truờng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một chủ trương hết sức quan trọng của giai đoạn này là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước là một trong những chủ trương lớn của đảng và nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu đó.
Qua mười năm đổi mới chúng ta đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Điều đó chứng tỏ đường lối lãnh đạo của đảng và nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn. Nhưng phía sau những thành tựu đó còn không ít những khó khăn nổi cộm do trong nền kinh tế đó còn tồn tại rất nhiều mâu thuẫn khác nhau. Do đó cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh Tế nước ta phát triển theo định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó.
NỘI DUNG CHÍNH:
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG
I Cơ sở lý luận
II. Cơ sở thực tế
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU NỀN KINH TẾ THI TRƯỜNG Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN
A. HIỆN NAY
I. Tính tất yếu khách quan phải xây dựng nền kinh tế thị trường
II. Vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế
III. Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế
IV. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
THƯƠNG NGHIỆP QUỐC DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN NỀN KINH
B.TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
I.Sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp thương mại nhà nước.
II. Thực trạng của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
III . Một số giải pháp nhằm đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước hiện nay
PHẦN III. KẾT LUẬN
27 trang |
Chia sẻ: lazy | Lượt xem: 2061 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những mâu thuẫn của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1986 trở về truớc nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu khủng hoảng trầm trọng kéo dài, mức sống nhân dân thấp.
Đứng trước bối cảnh đó con đường đúng đắn duy nhất để đổi mới đất nước là đổi mới nền kinh tế. Tại đại hội VI (tháng 12/1986) của đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế bao cấp tràn lan và tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị truờng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một chủ trương hết sức quan trọng của giai đoạn này là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước là một trong những chủ trương lớn của đảng và nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu đó.
Qua mười năm đổi mới chúng ta đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Điều đó chứng tỏ đường lối lãnh đạo của đảng và nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn. Nhưng phía sau những thành tựu đó còn không ít những khó khăn nổi cộm do trong nền kinh tế đó còn tồn tại rất nhiều mâu thuẫn khác nhau. Do đó cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh Tế nước ta phát triển theo định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa và giữ vững định hướng đó. Để hiểu rõ nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và sự phát triển sắp tới thì em đã chọn đề tài: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những mâu thuẫn của nó. Sự đổi mới tất yếu của các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở nước ta hiện nay để nghiên cứu.
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG
I Cơ sở lý luận:
1. Nội dung của quy luật mâu thuẫn:
. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến
Phép biện chứng duy vật khẳng định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật và hiện tuợng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy của con người.
Mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở mọi sự vật hiện tượng và tồn tại trong suốt quá trình phát triển của mỗi sự vật.
Mâu thuẫn mang tính đa dạng. Mỗi sự vật, mỗi quá trình của thế giới khách quan tồn tại những mâu thuẫn khác nhau. Mâu thuẫn trong tự nhiên khác trong mẫu thuẫn xã hội và khác với mâu thuẫn trong tư duy.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ phủ định khác nhau giữa các mặt đó.
+ Sự thống nhất giữa các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách giơì sự đấu tranh, chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chính thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh, chỉnh hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật
+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn. Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt. Chỉ có hai mặt khác nhau có liên hệ hữu cơ với nhau và phát triển trái ngược nhau thì mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn sự khác nhau đó biến thành sự đối lập và dẫn đến xung đột gay gắt. Đến một giai đoạn nào đó thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Kết quả là sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ bị phá huỷ, sự thống nhất của hai mặt đối lập mới dược hình thành cùng với mâu thuẫn mới .
Ví dụ: Sự phát triển của xã hội sẽ gắn liền với sự phát triển của phương thức sản xuất. Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn vận đông theo hướng hoàn thiện. Đến một giai đoạn nào đó thì quan hệ sản xuất hiện tại sẽ không phù hợp với lực lượng sản xuất. Lúc đó sẽ sinh ra mâu thuẫn giữa lực luợng sản xuất và quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản xuất cũ sẽ được xoá bỏ và thay vào đó là quan hệ sản xuất mới phù hợp . Quá trình phát triển và bài chừ lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ diễn ra liên tục không ngừng.
+Sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời tương đối, nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng yên tương đối của sự vật hiện tượng. Còn sự đấu tranh của các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hoá về vật chất của các sự vât và hiện tượng.
Sự chuyển hoá của các mặt đối lập.
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập nào dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến trình độ nhất định, hộ tụ các điều kiện cần thiết mới chuyển hoácuả các mặt đối lập thường xuyên diễn ra một cách tự phát. Còn trong xã hội sự chuyển hoácủa các mặt đối lập diễn ra nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi và sự vật mới được hình thành.
Sự chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra theo hai phương thức.
+ Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn.
+ Có hai mặt chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập hoàn toàn.
Một số loại mâu thuẫn.
2.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
+ Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn nằm ngay trong bản thân của sự vật và hiện tượng. Sự vật hiện tượng nào cũng có mâu thuẫn bên trong, bởi vì sự vật hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất của các mặt đối lập.
+ Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật và hiện tượng với nhau. Sự vật hiện tượng nào cũng có mâu thuẫn bên ngoài, bởi vì không có sự vật hiện tượng nào lại tồn tại một cách biệt lập, không liên hệ với các sự vật hiện tượng khác.
Mâu thuẫn bên trong là nhan tố quyết định sự vận độngvà phát triển của sự vật và hiện tượng. Nó là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận độngvà phát triển. Mâu thuẫn bên trong không tồn tại và phát sinh tác dụng tách dời mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của sự vật.
2.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
+ Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật và hiện tượng, nó quyết định quá trình phát triển của sự vật và hiện tượng từ khi được hình thành cho đến khi kết thúc.
+ Mâu thuẫn không cơ bản chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản. Tuy không giữ vai trò quyết định bản chất của sự vật và hiện tượng nhưng nó có vai trò quyết định đối với sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
2.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
+ Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi bật lên hàng đầu ở giai đoạn nhất định của quá trình phát triển của sự vật.
+ mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định.
2.4 Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
+ Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng , những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản trái ngược nhau , không thể điều hoà được
+ Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những khuynh hướng những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản nhất trí với nhau
Một số cặp phạm trù :
Nguyên nhân và kết quả
+ Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra sự bioến đổi nhất định
+ Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau
+ Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả , nguyên nhân có trước kết quả
+ Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả và ngược lại một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra .
+ Kết quả do nguyên nhân sinh ra nhưng kết quả không tồn tại một cách thụ động
Tất nhiên và ngẫu nhiên :
+ Tất nhiên là cái do bản chất , do những nguyên nhân bên trong của sự vật , hiện tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế.
+ Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất bên trong quyết định mà là do ngẫu hợp của những hoàn cảnh bên ngoài quyết định
+ Cái tất nhiên bao giờ cũng biểu lộ ra bên ngoài thông qua cái ngẫu nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình qua vô số cái ngẫu nhiên .
II. Cơ sở thực tế
1. Tình hình kinh tế Việt Nam trước năm 1986
Đây là thời điểm mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bộc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà hậu quả là xuất hiện cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội sâu sắc vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80 sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh . Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội , một phần tiêu dùng xã hội phải dựa vào vay và viện trợ , nền kinh tế chưa tạo được tích luỹ lương thực vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Tình hình cung ứng vật tư , tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng , nhiêud xí nghiệp sử dụng công xuất ở mức thấp . Chênh lệch lớn giữa thu và chi tài chính , giữa xuất khẩu và nhập khẩu . Thị trường và vật giá không ổn định , số người lao động chưa được sử dụng còn đông , đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn .
Thành tựu kinh tế đã đạt được trong công cuộc đổi mới :
Sau 10 năm thực hiện cải cách kinh tế kinh tế việt nam đã có những bước chuyển biến đáng khích lệ như :
Nhịp độ phát triển kinh tế khá nhanh và ổn định
+ GDP tăng hàng năm 3,9% (Trong thời kỳ 1986-1990) và 8,2% (Thời kỳ 1991-1995)
+ Nông nghiệp tăng 4,5%; công nghiệp tăng 13,5%; kim nghạch xuất khẩu tăng 20% trong thời kỳ 1991-1995
+ Sản lượng lương thực tăng nhanh 21,5 triệu tấn (1990) lên 27,5 triệu tấn (1995)
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ
+ Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng cơ bản trong GDP đã tăng từ 22,6% (1990) lên 30,3% (1995)
+ Tỷ trong dịch vụ từ 38,6% lên 42,5%
+ Tỷ trong nông nghiệp giảm từ 40,6% xuống 36,2%
+ Tỷ trọng kinh tế quốc doạnh trong GDP từ 29,4% lên 40,4%
Kiềm chế và đẩy lùi được nạn siêu lạm phát.
Trong những năm 1986-1988 nạn lạm phát đã giảm từ 3 con số xuống còn 2 con số (Riêng năm 1993 xuống 1 con số), trong khi tăng trưởng kinh tế khá cao.
Đời sống nhân dân
Một bộ phận dân có mức sống khá, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 55% (1989) xuống còn 19,9% (1993).
Những thành tựu kinh tế- xã hội đã đạt được là kết quả của đường lối đổi mới do đảng khởi xướng và lãnh đạo. Đồng thời, đó cũng là sự phù hợp giữa ý đảng và lòng dân.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
NỀN KINH TẾ THI TRƯỜNG Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Tính tất yếu khách quan phải xây dựng nền kinh tế thị trường
Đất nước ta hiện nay đang ở trong thời kỳquá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kỳ mà tồn tại cả những thành phần xã hội cũ và xã hội mới. Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau, cấu thành cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong thời kỳ này thì lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đố sẽ hình thành nên nhiều quan hệ sản xuất khác nhau, tạo ra nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập, mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất. Các thành phần kinh tế này tồn tại trong môi trường hợp tác và cạnh tranh.
Nguyên nhân của việc xuất hiện các thành phần kinh tểtong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là do tính đa dạng về sở hữu tư liệu sản xuất. Sự xuất hiện của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất không ngừng vận động biến đổi làm cho quan hệ sản xuất cũng không ngừng vận động biến đổi. Trong lịch sử phát triển của sản xuất xã hội, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất từ chỗ phù hợp, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất dần dần trở nên lỗi thời, lạc hậu, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự thay thế sở hữu tư nhân bằng sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, mở đường cho sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất là tất yếu khách quan. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển biến từ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thành sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.
Sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu tất yếu vì:
Nước ta có lực lượng lao động dồi dào (gần 40 triệu lao động), cần cù, thông minh song số người chưa có việc làm còn nhiều, gây lãng phí sức lao động.
Trình độ lao động của ta hiện nay chưa cao. Lao động chủ yếu vẫn là lao động chân tay.
Do đố, việc khai thác, tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế là một trong những giải pháp quan trọng để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Nó cũng phù hợp với yêu cầu khách quan trong giai đoạn hiện nay.
II. Vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế
1. Thành phần kinh tế nhà nước
Ở nước ta, nó ra đời do nhà nước đầu tư xây dựng và dokết quả của công cuộc cải tạo hoà bình, công thương nghiệp tư bản… Thành phần kinh tế này lấy sở hữu nhà nước làm nền tảng. Nó bao gồm: Các nguồn lực vật chất (nguồn tài nguyên thiên nhiên, ngân hàng, bảo hiểm, dự trữ quốc gia, tài chính, tín dụng, kho bạc… và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh do nhà nước làm chủ.
Do thành phần kinh tế nhà nước nắm các cơ sở quan trọng nhất của nền kinh tế, là chỗ dựa kinh tế của nhà nước, định hướng nền kinh tế đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, kinh tế nhà nướcgiữ một vai trò rất quan trọng trong các thành phần kinh tế của các nhà nước ta hiện nay.
2. Thành phần kinh tế tập thể
Thành phần kinh tế này dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Những người lao động góp vốn vào làm ăn tập thể dưới các hình thức là các hợp tác xã. Sự hình thành của kinh tế tập thể phù hợp với yêu cầu khách quan của xã hội hiện nay là hợp tác kinh doanh cùng có lợi. Đây là sự phát triển tất yếu của xã hội. Nhưng nó lại là sự xuất hiện ngẫu nhiên của một cá nhân nào đó đứng ra thành lập hợp tác xã. Cá nhân này sẽ đi kêu gọi, vận động mọi người tham gia vào hợp tác xã của mình dưới hình thức đóng góp về vốn và sức lực. Lợi ích của các xã viên sẽ được hưởng theo cổ phần đóng góp và sức lao động bỏ ra. Sự hình thành hợp tác sẽ mang tính tất yếu vì: Trong xã hội hiện nay có một bộ phận nông dân có tích luỹ được một số vốn. Nhưng số vốn đó còn quá nhỏ để mở một loại hình kinh doanh (thành lập hợp tác xã), trong khi đó họ lại muốn số tiền tích luỹ của mình có thể được lưu động và sinh lãi. Do đó sự xuất hiện của hợp tác xã sẽ tạo điều kiện cho họ tham gia.
Thành phần kinh tế cá thể và tiểu chủ
Thành phần kinh tế nay dựa trênchế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động của chính bản thân họ. Nước ta đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nênkinh tế cá thể và tiểu chủ của nước ta còn chiếm một tỷ trọng lớn ở trong nền kinh tế: tiểu thủ công nghiệp, buôn bán và dịch vụ nhỏ cá thể. Tác dụng của thành phần kinh tế nàylà vận dụng được mọi năng lực sản xuất, giải quyết được công ăn việc làm, tăng sản phẩm cho xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Thành phần kinh tế này từng bước được đi vào con đường làm ăn tập thể, dưới các hình thức hợp tác xã hoặc trở thành vệ tinh cho các thành phần kinh tế khác…
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
Dựa trên sở hữu tư bản về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Kinh tế tư bản tư nhân được tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn… Đối với nước ta, thành phần kinh tế này được phát triển trong những nghành nghề mà pháp luật cho phép. Vai trò và tác dụng của nó là: tận dụng được vốn, kỹ thuật công nghệ và trình độ quản lý của nhà tư bản, giải quyết được công ăn việc làm, tăng sản phẩm xã hội.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Thành phần kinh tế này ra đời do sự liên doanh liên kết nhà nước với tư bản tư nhân ở trong nước cũng như tư bản ở nước ngoài vào làm ăn ở nước ta. Nó tồn tại dưới nhiều hình thức như: các doanh nghiệp liên doanh, các công ty cổ phần…
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài
Thành phần kinh tế này dựa trên vốn đầu tư 100% vốn của nước ngoài vào nước ta thông qua đầu tư trực tiếp. Đối với nước ta thành phần kinh tế này có vai trò quan trọng trong thành phần kinh tế quá độ vì nó chiếm trên 10% GDP, hơn 20% thu nhập ngân sách và khoảng 30% kim nghạch xuất nhập khẩu.
III. Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế
Tính thống nhất
Mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân thống nhất. Sự phát triển của mỗi thành phần đều góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tuy có độc lập tương đối và có bản chất riêng nhưng hoạt động kinh doanh trong môi trường chung, cùng chịu tác động của các nhân tố, các quy luật thị trường. Đồng thời các thành phần kinh tế tác động với nhau cả tích cực và tiêu cực. Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần dẫn đến sự tồn tại của các giai cấp hoặc các tầng lớp khác nhau. Tổng hợp toàn bộ các giai cấp hoặc tầng lớp xã hội đó tạo thành cơ cấu xẫ hội- giai cấp.
Sự mâu thuẫn
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế làm cho cạnh tranh trở thành tất yếu. Cạnh tranh là động lực quan trọng để cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là mâu thuẫn giữa một bên là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư bản nhà nước với một bên là kinh tế tự phát tư sản và tiểu tư sản của kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể là không thể điều hoà.
Tóm lại, trong nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa chúng là khách quan. Sự thống nhất và mâu thuẫn làm cho các thành phần kinh tế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá, đều đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế và cần có sự quản lý của nhà nước nhằm đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh, đem lại thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Các thành phần kinh tế cần được thừa nhận và tạo điều kiện để chúng tồn tại, phát triển. Đồng thời, các thành phần kinh tế cần được bình dẳng trên mọi phương diện.
IV. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa người với người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hoá tiền tệ thị trường. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng bao quát trên mọi lĩnh vực có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và tiêu dùng.Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong điều kiện lịch sử nhất định. Kinh tế thị trường phản ánh đầy đủ trình độ văn minh và phát triển xã hội là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật như sự cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kì.
Kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người mà còn tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triển toàn diện, toàn diện cả về vật chất lẫn tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhạy, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả.
Tuy nhiên, không phải cứ xây dựng được kinh tế thị trường là phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người. Có những lúc, những nơi kinh tế thị trường làm cho con người ta tha hoá, biến con người thành nô lệ của đồng tiền, kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng trà đạp lên phẩm chất, văn hoá, đạo đức, luân lý…
Ví dụ như: tệ nạn thương mại hoá trường học, xem nhẹ truyền thống tôn sư trọng đạo, tệ nạn ma tuý, cờ bạc, mại dâm, hối lộ, tham nhũng…
Kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, là một mâu thuẫn biện chứng trong thực