Nghiên cứu cắt ngang sử dụng phương pháp định lượng và kết hợp định tính. Phương pháp định lượng
với 200 người nhiễm HIV, phương pháp định tính đã phỏng vấn 12 cuộc thảo luận nhóm tập trung với mục
tiêu tìm hiểu thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV. Nghiên cứu cho thấy có tới 8%
đối tượng bị từ chối tham gia các hoạt động cộng đồng và 3% bị cộng đồng ruồng bỏ. Tại gia đình có 10%
bị quấy rối bằng lời nói và 5% bị từ chối các hoạt động sinh hoạt trong gia đình. Có 9,5% người nhiễm có ý
định tự tử khi biết mình bị nhiễm HIV. Những người nhiễm đã kết hôn nguy cơ bị kỳ thị cao hơn gấp 3,3 lần
so với những người nhiễm chưa kết hôn (OR=3,3; P<0,05) và những người nhiễm không được sự chăm
sóc của gia đình có nguy cơ bị kỳ thị cao hơn 3,7 lần so với những người có sự chăm sóc của gia đình khi
ốm đau (OR =3,7; P<0,01).
8 trang |
Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 702 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỳ thị và phân biệt đối xử: Thực trạng của người nhiễm HIV tại tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXVI, Số 9 (182) 2016 1
Lê Xuân Huy1*, Dƣơng Công Thành2, Đỗ Thái Hùng1, Nguyễn Thành Đông1,
Lê Văn Đài1, Nguyễn Đình Lƣợng1, Trần Văn Tin3, Trần Thị Kim Dung3,
Bùi Hoàng Đức4, Võ Hải Sơn4, Phan Thị Thu Hƣơng4, Phạm Hồng Thắng2,
Hoàng Thị Thanh Hà2, Trần Hồng Trâm2, Trần Đại Quang2, Lê Anh Tuấn2,
Nguyễn Thị Thanh Hà2, Nguyễn Anh Tuấn2
1Viện Pasteur Nha Trang, Khánh Hòa
2Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội
3Trung tâm HIV/AIDS tỉnh Khánh Hòa
4Cục phòng, chống HIV/AIDS, Hà Nội
TÓM TẮT
Nghiên cứu cắt ngang sử dụng phương pháp định lượng và kết hợp định tính. Phương pháp định lượng
với 200 người nhiễm HIV, phương pháp định tính đã phỏng vấn 12 cuộc thảo luận nhóm tập trung với mục
tiêu tìm hiểu thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV. Nghiên cứu cho thấy có tới 8%
đối tượng bị từ chối tham gia các hoạt động cộng đồng và 3% bị cộng đồng ruồng bỏ. Tại gia đình có 10%
bị quấy rối bằng lời nói và 5% bị từ chối các hoạt động sinh hoạt trong gia đình. Có 9,5% người nhiễm có ý
định tự tử khi biết mình bị nhiễm HIV. Những người nhiễm đã kết hôn nguy cơ bị kỳ thị cao hơn gấp 3,3 lần
so với những người nhiễm chưa kết hôn (OR=3,3; P<0,05) và những người nhiễm không được sự chăm
sóc của gia đình có nguy cơ bị kỳ thị cao hơn 3,7 lần so với những người có sự chăm sóc của gia đình khi
ốm đau (OR =3,7; P<0,01).
ừ khóa: HIV, AIDS, người có HIV, kỳ thị và phân biệt đối xử (KT & PBĐX).
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi khoa học và y học thế giới chưa tìm
ra thuốc và những phương pháp để khống chế
sự phát tán của virus HIV, mọi người sợ, xa
lánh, kỳ thị những người nhiễm HIV là một lẽ,
nhưng đến nay khi khoa học đã chứng minh,
HIV thực ra không dễ lây nhiễm như người ta
tưởng, người nhiễm HIV có thể có cuộc sống
bình thường khoẻ mạnh trong mấy chục năm,
nhưng dường như sự kỳ thị với căn bệnh này
vẫn chưa thuyên giảm. Một thực tế đang xảy
ra ở nhiều nơi là người nhiễm HIV/AIDS đang
bị kỳ thị và phân biệt đối xử (KT&PBĐX)
tại gia đình, bạn bè, cộng đồng xã hội. Bản
thân người nhiễm HIV/AIDS cũng tự kỳ thị
như mặc cảm, xấu hổ, giấu diếm, xa lánh
tiếp xúc với người khác. Nguyên nhân của sự
KT&PBĐX là do thiếu hiểu biết, nhận thức sai
lệch về người bị nhiễm HIV/AIDS cũng như
từ phía cộng đồng. Những phán xét về khía
cạnh đạo đức và vấn đề giới cũng là những
nguyên nhân của KT & PBĐX.
Giảm kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan
đến HIV đóng vai trò quan trọng trong việc
chặn đứng đại dịch HIV/AIDS ở nước ta. Tại
Việt Nam, tính đến hết 30/11/2013, số trường
hợp báo cáo hiện nhiễm HIV là 216,254 trường
hợp, số bệnh nhân AIDS là 66,533 và đã có
68,977 trường hợp tử vong do AIDS. Riêng tại
Khánh Hòa, tính đến ngày 31/12/2013 tổng số
các trường hợp nhiễm HIV được phát hiện là
3,122 người, trong đó có 1,818 trường hợp đã
chuyển sang giai đoạn AIDS và 1,108 trường
hợp đã tử vong do AIDS. Tuy nhiên số người
*Tác giả: Lê Xuân Huy
Địa chỉ: Viện Pasteur Nha Trang
Điện thoại: 0934 808 630
Email: lexuanhuy75@yahoo.com.vn
Ngày nhận bài: 03/06/2016
Ngày phản biện: 02/08/2016
Ngày đăng bài: 30/09/2016
2 Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXVI, Số 9 (182) 2016
nhiễm HIV thực tế theo danh sách quản lý hiện
đang còn sống và tiếp cận được tại tỉnh Khánh
Hòa hiện còn rất thấp [1].
Nhằm đánh giá thực trạng về KT&PBĐX
với người nhiễm HIV/AIDS tại Khánh Hòa,
qua đó góp phần cung cấp các thông tin hữu ích
cho tỉnh Khánh Hòa nói riêng và các tỉnh nói
chung trong việc xây dựng kế hoạch can thiệp
phù hợp giảm KT&PBĐX với người nhiễm
HIV/AIDS, chúng tôi tiến hành đề tài với các
mục tiêu: Mô tả thực trạng kỳ thị và phân biệt
đối xử đối với người nhiễm HIV/AIDS; các
ảnh hưởng, tác hại của kỳ thị và phân biệt đối
xử với người nhiễm HIV/AIDS tại tỉnh Khánh
Hòa năm 2013.
II. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Người nhiễm HIV/AIDS: Từ 16 tuổi trở lên.
Đại diện gia đình người nhiễm: Là người
trong gia đình và sống cùng nhà người nhiễm
HIV như: bố, mẹ, anh, chị, em, vợ, chồng,
con...(bao gồm cả những thành viên là học sinh
trung học cơ sở và trung học phổ thông từ 10
tuổi trở lên).
Đại diện cộng đồng có cùng tổ dân phố với
người nhiễm HIV: Đại diện một số các ban
ngành địa phương như: Ủy ban nhân dân, Đoàn
thanh niên, Phụ nữ, y tế, tổ trưởng dân phố/
trưởng thôn.
2.2 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang có phân tích kết hợp
nghiên cứu định tính.
2.3 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại các huyện/
thành phố có số lượng người nhiễm cao nhất:
Nha Trang, Diên Khánh, Ninh Hòa của tỉnh
Khánh Hòa. Nghiên cứu tiến hành từ tháng
9/2013-2/2014.
2.4 Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Lấy mẫu toàn bộ đối với người nhiễm HIV/
AIDS, hiện đang sống tại các huyện/thành phố
Nha Trang, Diên Khánh, Ninh Hòa. Cỡ mẫu: 200.
2.5 Phƣơng pháp thu thập số liệu
Công cụ thu thập số liệu: Bảng câu hỏi thiết
kế sẵn cho phương pháp định lượng và bảng
câu hỏi hướng dẫn thảo luận nhóm cho phương
pháp định tính.
2.6 Xử lý, phân tích số liệu
Sử dụng phần mền Epidata 3.1 để nhập số
liệu, Sata11 cho phương pháp định lượng. Các
cuộc thảo luận nhóm sẽ được gỡ băng và xử lý
theo các nhóm chủ đề.
2.7 Đạo đức của nghiên cứu
Nghiên cứu này tuân thủ các quy định của
Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học
của Viện Pasteur Nha Trang. Nghiên cứu được
sự đồng ý của Sở Y tế tỉnh Khánh Hòa và phối
hợp triển khai của các đơn vị: Trung tâm Phòng
chống HIV/AIDS Khánh Hòa, Trung tâm Y tế
các huyện, thị xã, thành phố: Diên Khánh, Ninh
Hòa và Nha Trang là địa bàn triển khai.Tất cả các
đối tượng nghiên cứu đều được thông báo về mục
đích, nội dung, quyền lợi khi tham gia nghiên cứu.
Các đối tượng đều có quyền từ chối không tham
gia nghiên cứu hoặc chấm dứt nghiên cứu trong
bất kỳ thời điểm nào. Việc ghi âm trong các cuộc
thảo luận nhóm trọng tâm chỉ được thực hiện khi
có sự đồng ý của đối tượng nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
3.1 Thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử
Nghiên cứu tiến hành với 200 đối tượng
nhiễm HIV tại 3 địa bàn có số người nhiễm
HIV cao nhất tỉnh: Nha Trang, Diên Khánh và
Ninh Hòa. Trong nghiên cứu có 92% đối tượng
được phỏng vấn trên 25 tuổi (Bảng 1).
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXVI, Số 9 (182) 2016 3
ảng 1. ặc trưng nhân khẩu, xã hội của đối tượng (n=200)
ặc trưng ỷ lệ (%)
≥ 25 tuổi 92
Tuổi < 25 tuổi 8
Nhỏ nhất – lớn nhất 16-60
Giới
Nam
Nữ
49
51
Có vợ/chồng 45,5
Độc thân/chưa kết hôn 17
Tình trạng hôn nhân hiện tại
Ly dị
Góa
12,5
17,5
Ly thân 4
Sống chung không kết hôn 3,5
Mù chữ 2,5
Tiểu học (1-5) 22
Trình độ học vấn Trung học cơ sở (6-9) 48
Trung học phổ thông (10-12) 22
TC/CĐ/ĐH (>12) 5,5
Thu nhập trung bình hàng tháng (triệu đồng)
<2 triệu
≥2 triệu
42,5
57,5
Nông dân 3,5
Công nhân 12
Nghề nghiệp chính Cán bộ viên chức 2
Học sinh/sinh viên 0,5
Nghề khác 82
Số con bị nhiễm HIV
Không có con bị nhiễm
Có 1 con bị nhiễm HIV
96
4
Khi được hỏi 5 câu hỏi liên quan đến kiến
thức về HIV/AIDS thì không có đối tượng nào
có kiến thức đầy đủ về HIV/AIDS (nghĩa là
trả lời đúng cả 5 câu hỏi),các đối tượng trả lời
đúng 3 câu hỏi chiếm 67%, có 2% đối tượng
trả lời đúng 4 câu hỏi, 25% trả lời đúng 2 câu
hỏi, 5% trả lời đúng 1 câu và 1% không trả lời
đúng câu nào.
4 Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXVI, Số 9 (182) 2016
ảng 2. hực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử (n=200)
ặc trưng ỷ lệ (%)
Ruồng bỏ, xa lánh 3
Kỳ thị và phân biệt đối xử trong gia đình và trong Hỗ trợ và giúp đỡ 9
xã hội Chấp nhận 34
Phản ứng khác 54
Bị nhiễm HIV 26,7
Lý do bị gia đình từ chối thực hiện các hoạt động
trong gia đình
Lý do khác 53,3
Cả hai 20
Người nhiễm bị từ chối tham gia các hoạt động Từ chối tham gia 8
cộng đồng Sẵn sàng tham gia 92
Bạn tình 13
Người nhiễm HIV bị quấy rối, đe dọa bởi các đối
tượng xung quanh
Người trong gia đình 29
Người quen biết khác 58
Qua các cuộc thảo luận nhóm tình trạng từ
chối tham gia các hoạt động cộng đồng của
người nhiễm HIV đã được cải thiện rõ rệt,
người nhiễm tham gia thảo luận cảm thấy hiện
nay khá thoải mái trong giao tiếp với hàng xóm
và cộng đồng nơi họ sinh sống.
"Trước đây, dân trong xóm rất ngại tiếp xúc,
nói chuyện với tôi và người trong nhà tôi nhưng
bây họ đã thân thiện và giao tiếp thân mật hơn,
không ngại khi tiếp xúc với tôi và gia đình tôi.
Trích ý kiến thảo luận đại diện nhiễm có
HIV (NCH) Diên Khánh".
Thái độ và hành vi kỳ thị bản thâncó sự thay
đổi sau khi biết mình bị nhiễm HIV, trong đó
sự tự kỳ thị với bản thân là sự thay đổi rất lớn
nhất và rõ rệt nhất.
"Lúc biết mình bị nhiễm HIV, tôi chán nản,
bất cần và quan hệ tình dục với mấy em không
sử dụng bao cao su, sau đó nghĩ lại tôi ít quan hệ
tình dục bừa bãi hơn và luôn sử dụng bao cao su.
Trích ý kiến thảo luận nhóm đại diện NCH
Nha Trang".
3.2 Ảnh hƣởng và tác hại của kỳ thị và phân
biệt đối xử
Ảnh hưởng đến quyền, luật pháp và chính
sách của người nhiễm. Trong nghiên cứu này,
có 9/200 (chiếm 4,5%) đối tượng phỏng vấn cho
biết họ bị xâm phạm các quyền của mình vì tình
trạng HIV trong 12 tháng qua. Có 1/9 đối tượng
đã khiếu nại, yêu cầu sửa chữa theo quyền lợi
của họ. Mặc dù có đến 85,5% đối tượng cho
biết họ đã nghe nói về Luật phòng chống HIV/
AIDS và 81,5% đã từng nghe nói về những điều
khoản liên quan đến bảo vệ quyền lợi cho người
có HIV, có 13% đối tượng có sự đối phó lại khi
họ bị kỳ thị hay phân biệt đối xử.
"Qua ti vi, có nghe loáng thoáng về Luật
phòng chống HIV/AIDS nhưng không rõ trong
đó nói gì, hình như có nói đến mọi người trong
xã hội không được xa lánh với người nhiễm
HIV, thông tin về người nhiễm HIV cần được
giữ bí mật.
Trích ý kiến thảo luận nhóm đại diện cộng
đồng huyện Diên Khánh".
Nghiên cứu định tính trên các đối tượng
khác nhau trong cộng đồng cho thấy, việc hiểu
biết về Luật phòng chống HIV/AIDS còn rất
hạn chế mà nguyên nhân là Luật chưa được phổ
biến sâu, rộng đến cộng đồng. Người nhiễm và
gia đình người nhiễm có hiểu biết về Luật tốt
hơn so với các thành viên đại diện cộng đồng.
"Khi tôi đi khám bệnh tại bệnh viện, nhân viên
y tế không tư vấn về xét nghiệm HIV cho tôi mà
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXVI, Số 9 (182) 2016 5
chỉ sau khi có kết quả xét nghiệm dương tính họ
mới gặp tôi để trao đổi về kết quả xét nghiệm HIV.
Trích ý kiến thảo luận nhóm đại diện NCH
tại Nha Trang".
Bí mật tình trạng nhiễm HIV tại các cơ sở
y tế (CSYT) và giải pháp tâm lý góp phần giúp
cho bệnh nhân AIDS vượt qua khủng hoảng
cũng như tăng hiệu quả điều trị, tình trạng nhân
viên y tế tiết lộ tình trạng nhiễm HIV (13%) tại
các CSYT cho các nhân viên y tế khác và bệnh
nhân đang điều trị tại bệnh phòng.
Có đến 72,5% đối tượng trả lời không tiếp
cận các phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện
TVXNTN vì sợ bị kỳ thị. Kết quả thảo luận
nhóm cho thấy đa số người nhiễm thống nhất
ý kiến rằng họ ngại tiếp cận với các phòng
TVXNTN vì sợ tình trạng nhiễm HIV của bản
thân bị bộc lộ, lan truyền ra bạn bè, hàng xóm
gây ảnh hưởng đến uy tín, công việc làm ăn,
học hành của con và người thân họ.
"Đa phần người nhiễm HIV chúng tôi không
dám đến các phòng tư vấn vì sợ bị lộ tình trạng
nhiễm HIV làm ảnh hưởng đến gia đình.
Trích ý kiến thảo luận nhóm đại diện NCH
tại Ninh Hòa".
"Hiện nay tôi thỉnh thoảng đi khám bệnh tại
bệnh viện A nhưng nhân viên y tế từ khi biết tôi
nhiễm HIV họ không thể hiện thái độ rõ ràng
nhưng hình như ít ngó ngàng và quan tâm hơn.
Trích ý kiến thảo luận nhóm đại diện NCH
Nha Trang".
Y tế là cơ quan chủ yếu trong hỗ trợ chăm
sóc về vật chất và tinh thần,84% đối tượng
nhận được lời khuyên từ cán bộ Y tế; 72,5%
nhận được tờ rơi tuyên truyền, 64% nhận được
bao cao su và 84% nhận được lời khuyên từ các
đồng đ ng viên.
"Tôi thường gặp cán bộ y tế và các đồng
đẳng viên thăm hỏi tình hình sức khỏe và động
viên an ủi nhưng hiếm khi gặp các ông bà làm
chính quyền thăm nhà.
Trích ý kiến thảo luận nhóm đại diện gia
đình NCH Diên Khánh".
3.3 Một số yếu tố liên quan đến tình trạng
kỳ thị
ảng 3. ột số yếu tố liên quan đến tình trạng kỳ thị
ác yếu tố
ỳ thị
n (%)
Có Không
OR
(95% CI) P
Hôn nhân
Trình độ học vấn
Được gia đình chăm sóc
Đã kết hôn 41 (24,7) 125 (75,3) 3,3 Fisher’ exact
Chưa kết hôn* 3 (8,8) 31 (91,2) (0,03-0,94) P=0,04
< cấp 2 9 (18,4) 40 (81,6) 0,7
0,49
≥ cấp 2* 35 (23,2) 116 (76,8) (0,28-1,76)
Không 9 (47,4) 10 (52,6) 3,7
khi ốm đau
Nhận được sự hỗ trợ trong
6 tháng qua
Có* 35 (19,3) 146 (80,7) (1,2-11,08)
Không 13 (14,6) 76 (85,3) 0,4
Có* 31 (27,9) 80 (72,1) (0,19-0,94)
0,005
0,024
OR: Odd ratio - Tỷ suất chênh; CI: Confidence interval - Khoảng tin cậy; P: Giá trị P
IV. BÀN LUẬN
4.1 Thực trạng kỳ thị, phân biệt đối xử
Có 3% đối tượng bị cộng đồng ruồng bỏ xa
lánh, 8% đối tượng bị từ chối tham gia các hoạt
động cộng đồng. Sự kỳ thị của cộng đồng đối với
người nhiễm trong nghiên cứu này tương đương
với một số yếu tố liên quan đến kỳ thị trong
6 Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXVI, Số 9 (182) 2016
nghiên cứu “Điều tra kiến thức, thái độ, hành vi
về phòng chống nhiễm HIV/AIDS trên đối tượng
nghiên cứu 15 - 49 tuổi tại huyện Diên Khánh và
Ninh Hòa của tỉnh Khánh Hòa năm 2008” nhưng
lại thấp hơn so với nghiên cứu “Đánh giá kiến
thức, thái độ và thực hành phòng chống HIV trên
người dân 15 - 49 tuổi ở tỉnh Long An năm 2012”
của tác giả Lê Thị Mỹ Hạnh, cụ thể: thái độ ứng
xử không đúng với người nhiễm HIV/AIDS của
người dân 16-49 tuổi chiếm 7,6%, không sẵn
lòng chăm sóc người thân nhiễm HIV chiếm
31,1%, không đồng ý mua rau của người nhiễm
chiếm 34,8%, tránh giao tiếp với người nhiễm
HIV là 38,6% [2, 4].
4.2 Ảnh hƣởng của kỳ thị và phân biệt đối xử
Qua kết quả nghiên cứu định tính trên các
đối tượng khác nhau trong cộng đồng cho thấy,
việc hiểu biết về Luật Phòng, chống HIV/AIDS
còn rất hạn chế mà nguyên nhân là Luật chưa
được phổ biến sâu, rộng đến cộng đồng. Người
nhiễm và gia đình người nhiễm có hiểu biết về
luật tốt hơn so với các thành viên đại diện cộng
đồng. Luật Phòng, chống HIV/AIDS và luật
pháp, chính sách liên quan khác bảo vệ quyền
cụ thể của người có HIV tại Việt Nam: bao gồm
xét nghiệm tự nguyện, quyền bí mật riêng tư
và quyền giáo dục, việc làm, chăm sóc y tế và
không bị phân biệt đối xử. Các đạo luật này tạo
ra cơ chế để trợ giúp pháp lí trong trường hợp
các quyền này bị vi phạm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy người được
phỏng vấn quyết định đi làm xét nghiệm HIV vì
nhiều lý do khác nhau, trong đó lý do tự nguyện
chiếm 37%, cơ sở y tế chỉ định 27,5%, gia đình
có người nhiễm 13%, mang thai 12,5%, yêu
cầu việc làm 2,5%.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu 200 đối tượng đã cho thấy thực
trạng KT&PBĐX tại tỉnh Khánh Hòa rất thấp.
Ảnh hưởng, tác hại của KT&PBĐX đang là
điều lo lắng cho người nhiễm. 72,5% đối tượng
trả lời không tiếp cận các phòng TVXNTN vì
sợ bị kỳ thị, nhân viên y tế tiết lộ tình trạng
nhiễm HIV tại các cơ sở y tế 13%. Sự quan
tâm tới người nhiễm chỉ tập trung chủ yếu là
nghành y tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tổng kết công tác phòng, chống HIV/
AIDS khu vực miền Trung năm 2013. Viện
Pasteur Nha Trang 2013.
2. Lê Thị Mỹ Hạnh. Đánh giá kiến thức, thái độ và
thực hành phòng chống HIV/AIDS trên người dân
15 – 49 tuổi ở tỉnh Long An năm 2012. Y học thực
hành, số (889 + 890): 386-389.
3. Đỗ Đặng Đông. Thực Trạng kỳ thị và phân biệt
đối xử ở ba nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao để
phân biệt được sự kỳ thị và phân biệt đối xử liên
quan đến HIV ở Việt Nam. Y học thực hành, số
(889 + 890): 411-416.
4. Trương Tấn Minh. Đánh giá kiến thức, thái độ,
hành vi về phòng, chống HIV/AIDS trên đối
tượng nghiên cứu 15-49 tuổi tại Khánh Hòa 2008.
Y học thực hành, số (742 + 743): 66 – 71.
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXVI, Số 9 (182) 2016 7
STIGMA AND DISCRIMINATION: THE REALITY OF PEOPLE LIVING
WITH HIV IN KHANH HOA PROVINCE
Le Xuan Huy1, Duong Cong Thanh2, Do Thai Hung1, Nguyen Thanh Dong1,
Le Van Dai1, Nguyen Dinh Luong1, Tran Van Tin3, Tran Thi Kim Dung3,
Bui Hoang Duc4, Vo Hai Son4, Phan Thi Thu Huong4, Pham Hong Thang2,
Hoang Thi Thanh Ha2, Tran Hong Tram2, Le Anh Tuan2, Tran Dai Quang2,
Nguyen Thi Thanh Ha2, Nguyen Anh Tuan2
1Nha Trang Pasteur Institute, Khanh Hoa
2National Institute of Hygiene and Epidemiology
3Provicial AIDS center, Khanh Hoa
4VietNam Administraion of AIDS Control
Cross-sectional research combined quantitative
method with qualitative method. The quantitative
approach with 200 people living with HIV
(PLHIV), while the qualitative method has
interviewed 12 group discussions finding the
reality of stigma and discrimination towards
PLHIV. The results show that the participants
had been refused to join public activities and
being abandoned to the community with 8% and
3% respectively. There was 10% interviewers
being harassed verbally inside family and 5%
were denied joining liveliness in their families.
Approximately 9.5% reported having suicidal
intent after diagnosed as HIV – positive. The
risk of being stigmatized of married PLHIV
is higher than unmarried ones as 3,3 times
(OR = 3,3; P<0,05), furthermore, the PLHIV
having no family care acquired stigma greater
3,7 times compared to PLHIV obtaining health
care from family in terms of sickness (OP=3.7;
P<0,01).
Keywords: HIV, AIDS, PLHIV, stigma and
discrimination.