Tình hình nghiên cứu và mục tiêu: Thì 2 trong tạo hình tai nhỏ là giai đoạn nâng tách vành tai. Giai đoạn
này cần khoảng da lớn nhằm che phủ vành tai mới đồng thời sao cho khi nâng vành cũng che phủ cả khoảng da
sau tai vùng xương chủm, nguy cơ hoại tử mảnh ghép sau mổ rất cao. Sử dụng toàn bộ cấu trúc da – cân – cơ
thái dương làm mảng ghép nhằm để vừa che phủ vừa nâng đở vành tai nhằm tránh nguy cơ trầm trọng này.
Phương pháp và phương tiện nghiên cứu: Là phương pháp nghiên cứu thực nghiệm tiến cứu, gồm có 11
bệnh nhân đã tiến hành phẫu thuật tạo hình tai nhỏ thì 1. Được thực hiện thì 2 tách và nâng vành tại bằng mảnh
ghép gồm da – cân – cơ thái dương bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
Kết quả: Nam 8 ca, nữ chiếm 3 ca, tuổi nhỏ nhất là 8 tuổi, có 3 ca người lớn trong đó lớn nhất là 30 tuổi,.
Độ vểnh của tai mới so với tai lành ((bờ luân nhĩ cách mặt phẳng xương chủm 1,5 – 2cm ) đạt 100%; trục tai
mới so với tai lành (trục nghiên sau 5 - 25º) đạt mức đồng trục 100%; cực trên vành tai mới ngang khóe mắt
ngoài 90 %; cực dưới vành tai mới ngang cánh mũi đạt 100%; cần phẫu thuật nhỏ chỉnh sửa lại: 8 ca; hoại tử
mảnh ghép : 0%; mức độ hài lòng của bệnh nhân: 100%
Kết luận: Qua 11 trường hợp áp dụng kỹ thuật sử dụng vạt da – cân – cơ thái dương có cuống làm mảnh
ghép trong thì 2 nâng tách vành tai đã tạo những kết quả hơn hẳn so với việc sử dụng mảnh ghép tự do. Trong
đó những tai biến e ngại nhất của phẫu thuật này là hoại tử mảnh ghép, lộ sụn, nhiễm khuẩn đã không thấy
trong lô nghiên cứu. Đồng thời với kỹ thuật này thời gian phẫu thuật được rút ngắn đáng kể cũng như hạn chế
được những vết thương khác trên cơ thể bệnh nhân.
5 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ thuật sử dụng vạt da-cân-cơ thái dương trong thì nâng tách vành tai trong tạo hình tai nhỏ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 279
KỸ THUẬT SỬ DỤNG VẠT DA-CÂN-CƠ THÁI DƯƠNG
TRONG THÌ NÂNG TÁCH VÀNH TAI TRONG TẠO HÌNH TAI NHỎ
Lý Xuân Quang*, Trần Thị Bích Liên **
Tóm tắt:
Tình hình nghiên cứu và mục tiêu: Thì 2 trong tạo hình tai nhỏ là giai đoạn nâng tách vành tai. Giai đoạn
này cần khoảng da lớn nhằm che phủ vành tai mới đồng thời sao cho khi nâng vành cũng che phủ cả khoảng da
sau tai vùng xương chủm, nguy cơ hoại tử mảnh ghép sau mổ rất cao. Sử dụng toàn bộ cấu trúc da – cân – cơ
thái dương làm mảng ghép nhằm để vừa che phủ vừa nâng đở vành tai nhằm tránh nguy cơ trầm trọng này.
Phương pháp và phương tiện nghiên cứu: Là phương pháp nghiên cứu thực nghiệm tiến cứu, gồm có 11
bệnh nhân đã tiến hành phẫu thuật tạo hình tai nhỏ thì 1. Được thực hiện thì 2 tách và nâng vành tại bằng mảnh
ghép gồm da – cân – cơ thái dương bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
Kết quả: Nam 8 ca, nữ chiếm 3 ca, tuổi nhỏ nhất là 8 tuổi, có 3 ca người lớn trong đó lớn nhất là 30 tuổi,.
Độ vểnh của tai mới so với tai lành ((bờ luân nhĩ cách mặt phẳng xương chủm 1,5 – 2cm ) đạt 100%; trục tai
mới so với tai lành (trục nghiên sau 5 - 25º) đạt mức đồng trục 100%; cực trên vành tai mới ngang khóe mắt
ngoài 90 %; cực dưới vành tai mới ngang cánh mũi đạt 100%; cần phẫu thuật nhỏ chỉnh sửa lại: 8 ca; hoại tử
mảnh ghép : 0%; mức độ hài lòng của bệnh nhân: 100%
Kết luận: Qua 11 trường hợp áp dụng kỹ thuật sử dụng vạt da – cân – cơ thái dương có cuống làm mảnh
ghép trong thì 2 nâng tách vành tai đã tạo những kết quả hơn hẳn so với việc sử dụng mảnh ghép tự do. Trong
đó những tai biến e ngại nhất của phẫu thuật này là hoại tử mảnh ghép, lộ sụn, nhiễm khuẩn đã không thấy
trong lô nghiên cứu. Đồng thời với kỹ thuật này thời gian phẫu thuật được rút ngắn đáng kể cũng như hạn chế
được những vết thương khác trên cơ thể bệnh nhân.
Từ khóa : vạt da cân cơ thái dương
ABSTRACT
THE SKIN –FACIAL –MUSCLE TEMPORALIS PEDICULATED TECHNIQUE IN EVALUATION OF
FRAME IN MICROTIA RECONSTRUCTIVE SURGERY
Ly Xuan Quang, Tran Thi Bich Lien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 279 - 283
Background and Aims: Second stage in microtia reconstructive surgery is elevation of ear frame. This
stage needs a big skin piece for covering total new ear and posterior mastoid area. So it is high risk by flap
necrosis. Using the skin – fascial - muscle temporalis pediculated technique is a flap to avoid this severe
complication.
Materials & methods: Trial prospective study, 11 cases is operated first stage after 3 months. Being
elevated of ear frame by the skin – fascial - muscle temporalis pediculated technique in UMC
Results: 8 males, 3 females; youngest is 8 year old, oldest is 30 among having 3 adult cases. Comparing raise
degree of new ear with normal ear is 100%; oblique axe 5 -25º is co-axe 100%. Superior helix equal exterior
canthus is 90%; inferior helix equal alae is 100%; small repaired cases are 8; no case necrosis flap; patient
satisfaction is 100%.
* Bộ môn Tai Mũi Họng Đại Học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS Lý Xuân Quang ĐT: 0908084001 Email: xuanquangnt2001@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 280
Conclusion: Through 11 cases applied the skin – fascial - muscle temporalis pediculated technique using as
a flap in the ear frame elavation of microtia surgery is better than free flap. Necrosis flap, exposure catilages or
infection are not have in our study. This technique is reduced operative time as well as significantly limite the
other lesions on body of patient.
Key word: skin – fascial - muscle temporalis flap
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thì 2 trong tạo hình tai nhỏ là giai đoạn
nâng tách vành tai. Giai đoạn này cần khoảng
da lớn nhằm che phủ vành tai mới đồng thời
sao cho khi nâng vành cũng che phủ cả khoảng
da sau tai vùng xương chủm. Có nhiều kỹ thuật
cũng như các trường phái khác nhau để thực
hiện công đoạn này. Từ kỹ thuật ghép da tự do
ở được lấy từ đùi, da bụng, da đầu vùng chẩm
đến một phần trên vùng thái dương(5,3). Sử dụng
da ghép tự do cần được bào mỏng, mảng ghép
đủ lớn để che phủ toàn bộ vành tai mới và nhờ
vào hệ thống mạch máu tại chỗ nuôi dưỡng
trong quá trình ép sát hút áp lực âm. Do vậy
nguy cơ hoại tử mảnh ghép sau mổ rất cao vì
lúc này vành tai được nâng cao, hệ thống nâng
đở dưới da là khung sụn mới, ít mô liên kết
dưới da. Đồng thời do vành tai phải cách xa sau
xương chũm làm cho hệ thống mạch máu vùng
vành tai càng “xa”, càng kém nuôi dưỡng.
Khuynh hướng các phẫu thuật viên ưa thích sử
dụng da tại chỗ có cuống nhằm đảm bảo việc
nuôi dưỡng mảnh ghép sống tốt và khoảng da
đủ rộng để che phủ toàn bộ tai mới đồng thời
cần đảm bảo cho việc tách và nâng vành tai.
Mảng ghép có cuống tại chỗ thường được sử
dụng là mảng da cân thái dương(4) nhờ vào hệ
thống mạch máu thái dương nông nuôi dưỡng.
Chúng tôi sử dụng toàn bộ cấu trúc da – cân –
cơ thái dương làm mảng ghép nhằm để vừa che
phủ vừa nâng đở vành tai.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đây là phương pháp nghiên cứu thực
nghiệm tiền cứu. Mẫu nghiên cứu là các bệnh
nhân đã tiến hành phẫu thuật tạo hình tai nhỏ
thì 1, đã được theo dõi chăm sóc từ 3- 6 tháng
sau mổ. Cở mẫu là 11 được thực hiện thì 2
tách và nâng vành tại bệnh viện Đại học Y
Dược TP. HCM.
Phương pháp thực hiện
Bước 1
Đánh giá lại khung sụn mới đã được vùi và
các chi tiết của cấu trúc vành tai còn thiếu nếu
có
Đo độ vểnh của tai lành làm chuẩn cho tai
bệnh. Trong trường hợp cả hai tai đều bị dị tật
thì tạo độ vểnh là 15º so với mặt phẳng xương
chủm.
Đo khoảng da ước lượng cần bao phủ toàn
bộ vành tai và sau xương chủm.
Vùng da thái dương cùng bên được cạo tóc
sát da
Bước 2
Vẽ khoảng da sẽ lấy và cuống mảng ghép
nằm ở phía trước trên vành tai (hình 1)
Hình 1: Chuẩn bị vạt da ghép da – cân – cơ thái
dương
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 281
Hình 2: Vạt da được chia 2 phần
phủ lên vành tai và sau tai
Hình 3: Tạo hình hoàn chỉnh các
chi tiết của vành tai mới
Hình 4: Phần sau tai vẫn có tóc
Hình 5: Tai trái dị tật trước mổ Hình 6: Tai trái mới đã hoàn chỉnh
Rạch và lấy khoảng mảnh ghép gồm da –
cân – cơ thái dương. Chú ý cần bộc lộ rõ hệ
thống động mạch thái dương nông nuông
dương mảnh ghép
Xoay và uớc lượng mảng ghép sao cho đủ
để che phủ vành tai mới và sau xương chũm
Cắt đôi mảnh ghép dọc theo 2/3 chiều dài
đến giới hạn da. Trong đó phần mảng ghép che
phủ lên vành tai được tách cạo tóc sát da nhằm
làm tổn thương chân tóc. Phần vạt da che sau
xương chũm còn đủ 3 thành phần da - cân – cơ
(hình 4).
Bước 3
Bộc lộ khung vành tai.
Lấy mảnh sụn “để dành” được chôn vùi
trong thì 1 để làm sụn chêm sau tai.
Xoay vạt da ghép: phần da mỏng che phủ
vành tai, phần che phủ sau tai và xương chủm
được sử dụng vừa là vạt che phủ vừa là vật độn
nhằm nâng cao thêm vành tai (hình 2).
Xoay chuyển phần da thửa bẩm sinh để tạo
trái tai (hình 3).
KẾT QUẢ
Qua 11 ca tạo hình tai nhỏ thì hai, sau 3
tháng theo dõi chúng tôi có những đánh giá sau:
Tuổi
Tuổi nhỏ nhất là 8 tuổi, có 3 ca người lớn
trong đó lớn nhất là 30 tuổi
Tuổi Số ca %
8 2 18,2
9 3 27,4
10 2 18,2
12 2 18,2
18 1 9,0
30 1 9,0
Tổng cộng 11 100,0
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 282
Giới
Giới Số ca %
Nam 8 72,72
Nữ 3 27,28
Tổng cộng 11 100,0
Tỉ lệ độ dị tật
Tai Trái: 6 ca.
Tai Phải: 5 ca.
2 tai: 0 trường hợp.
Kỹ thuật
Độ vểnh của tai mới so với tai lành đạt mức
đồng bộ (bờ luân nhĩ cách mặt phẳng xương
chủm 1,5 – 2cm tương ứng với góc mở 15 - 20º
so với mặt phẳng đứng dọc): 100%.
Trục tai mới so với tai lành đạt mức đồng
trục (trục nghiên sau 5 - 25º): 100%.
Cực trên vành tai mới ngang khóe mắt
ngoài: 90%.
Cực dưới vành tai mới ngang cánh mũi:
100%.
Thêm phẫu thuật nhỏ chỉnh sửa lại: 8 ca.
Biến chứng
Tai biến hoại tử mảnh ghép : 0%.
Mức độ hài lòng của bệnh nhân: 100%.
BÀN LUẬN
Vấn đề quan trọng chủ yếu của thì 2 trong
phẫu thuật tạo hình tai nhỏ là mảng da ghép sao
cho vừa đủ che phủ toàn bộ vành tai mới cũng
như che phủ phần sau xương chũm sau khi
nâng tách vành. Có nhiều tác giả sử mảnh ghép
tự do được lấy từ các nơi khác trên thân thể như
da đùi, da bụng hoặc sử dụng da đầu vùng
xương chẩm(5,3). Tác giả Đặng Hoàng Sơn ghép
da mỏng, rời ở phía sau vành tai bằng một phần
da ở phía tai đối diện phủ lên phần rìa vành tai
để có được lớp da mỏng cùng màu sắc với tai
bên đối diện là phần được nhìn thấy; còn phần ở
sâu trong gần rãnh tai lại lấy da vùng bẹn để
ghép. Tác giả nhận định phương pháp này bất
tiện ở chỗ lấy da ở hai chỗ khác nhau và phải
may lại với nhau. Như vậy tốn nhiều thời gian,
bệnh nhân lại bị vết thương hai nơi lại kết quả
lại không tốt gì hơn. Do vậy trong những
trường hợp tác giả sử dụng duy nhất da mỏng ở
vùng nếp bẹn một mảng và không bị vệt may
nối trên vành tai. Tỉ lệ hoại tử da, hở sụn là
25%(2).
Brent(1) thực hiện công đoạn nâng tách vành
tai trong thì 3. Tác giả sử dụng sụn hố thuyền
của tai bên lành làm vật chêm độn để nâng vành
và ghép da tự do sau tai. Các chi tiết như nắp tai
được tác giả thực hiện vào thì 4. Qua đó cho
thấy những yếu điểm như sụn hố thuyền tai
lành bị lấy đi sẽ không đạt độ cứng nằm nâng
đở vành tai nên độ vểnh của tai sẽ bị ảnh hưởng
đồng thời mảnh ghép da sau tai cũng có nguy
cơ hoại tử. Nagata(4) sử dụng vạt cân cơ thái
dương có cuống để che mặt sau khung sụn và
mặt xương chủm, sau đó ghép da tự do vùng
sau tai. Ngoài ra tác giả sử dụng sụn sườn số 5
để tạo hình thành sụn chêm nâng vành tai.
Trong công trình nghiên cứu của chúng tôi đã
cải tiến kỹ thuật của Nagata bằng cách lấy toàn
bộ cấu trúc da – cân – cơ thái dương có cuống
làm một mảnh ghép duy nhất để che phủ hoàn
toàn vành tai, sau vành tai và mặt xương chủm.
Kỹ thuật này có những ưu điểm nổi trội là:
Đảm bảo mảng ghép được nuôi dưỡng nhờ
hệ thống mạch máu thái dương nông
Mảng ghép được cắt đôi khoảng 2/3 theo
chiều dài tới phần da; trong đó phần che phủ
lên vành tai và khoảng rảnh sau tai được làm
mỏng, sát chân tóc nhằm làm tổ thương chân tóc
để sau này tóc không thể mọc được mà vẫn đảm
bảo được độ mỏng ép sát vành tai và được nuôi
dưỡng không hoại tử.
Phần da ghép còn lại đầy đủ cấu trúc da,
cân, cơ nhằm che phủ sau tai, mặt xương chủm
đồng thời tăng cường thên độ nâng đổ vành tai
tạo được độ vểnh của tai mới.
Sụn “để dành” đã chôn vùi trong thì 1 được
lấy ra tạo hình thành sụn chêm rảnh sau tai
cùng khối cân – cơ thái dương của mảng ghép
tạo nên một khoảng đệm chắc chắn. Sau một
thời gian dù khối cân cơ có teo nhỏ vẫn không
làm xẹp vành tai.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 283
Sử dụng khoảng da thừa bẩm sinh chuyển
vạt để tạo hình trái tai cũng như tạo hình nắp
tai.
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn phải tiến hành
thêm phẫu thuật nhỏ, gây tê tại chỗ nhằm
chỉnh sửa lại ở góc trước trên ngay vị trí
cuống mảng ghép sau 3 tháng để tạo độ
phẳng vùng da thái dương.
KẾT LUẬN
Với kỹ thuật sử dụng vạt da – cân – cơ thái
dương có cuống làm mảnh ghép trong thì 2
nâng tách vành tai đã tạo những kết quả hơn
hẳn so với việc sử dụng mảnh ghép tự do mà
một trong những điều e ngại nhất của phẫu
thuật này là hoại tử mảnh ghép, lộ sụn, nhiễm
khuẩn. Đồng thời với kỹ thuật này thời gian
phẫu thuật được rút ngắn đáng kể cũng như
hạn chế được những vết thương khác trên cơ thể
bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brent B (2002) Microtia repair with rib cartilage grafts: a review
of personal experience with 1000 cases. Clin Plast Surg, 29:257–
271
2. Đăng Hoàng Sơn (2011) Tạo hình vành tai ở trẻ bị dị tật tai nhỏ,
Nội san hội nghị khoa học kỹ thuật toàn quốc đại hội hội Tai
Mũi Họng Việt Nam lần thứ XII, trang 265 – 268
3. Hata Y, Umeda T (2000): Reconstruction of congenital microtia
by using a tissue expander. JMed Dent Sci; 47:105–16.
4. Nagata S (1993) A new method of total reconstruction of the
auricle for microtia. Plast Reconstr Surg. Aug; 92(2):187-20
5. Park C (2000): Subfascial expansion and expanded two-flap
method for microtia reconstruction. Plast Reconstr Surg 2000;
106: 1473.