Chương 1: Cơ sở lý luận về kế hoạch hóa trong doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Quy trình và các bước lập kế hoạch trong doanh nghiệp.
Chương 3: Thực trạng lập và thực hiện kế hoạch trong các doanh nghiệp nhà nước. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lập và thực hiện kế hoạch trong doanh nghiệp.
28 trang |
Chia sẻ: lazy | Lượt xem: 2612 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lập kế hoạch trong Doanh Nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu.
Kể từ khi nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường thì tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có nhiều thay đổi. Trong thời gian đầu các doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung đã loại bỏ hoàn toàn công tác kế hoạch hóa ra ngoài, phủ nhận hoàn toàn vai trò của kế hoạch hóa trong nền kinh tế và trong từng doanh nghiệp. Họ coi kế hoạch hóa là sản phẩm của cơ chế cũ và nó không còn phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường, họ coi thị trường là yếu tố quyết định còn kế hoạch thì không có vai trò gì cả.
Nhưng trong thực tế của những năm qua và kinh nghiệm của các doanh nghiệp lớn trên thế giới đã cho thấy rằng dù ở trong nền kinh tế thị trường phát triển thì các doanh nghiệp vẫn phải có chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Doanh nghiệp nào có chiến lược và kế hoạch hợp lý thì doanh nghiệp đó hoạt động càng hiệu quả và ngày càng phát triển. Kế hoạch chiến lược đóng vai trò như một kim chỉ nam hướng doanh nghiệp tới các mục tiêu nhiệm vụ cần đạt được trong tương lai. Do vậy trong nền kinh tế thì trường thì kế hoạch hóa trong doanh nghiệp vẫn có những vai trò rất quan trọng. Thấy được điều đó và thực trạng của công tác lập và thực hiện kế hoạch ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay mà tôi đi vào tìm hiểu vấn đề này để mong làm rõ vai trò của kế hoạch hóa trong doanh nghiệp từ đó mà sẽ giúp ích cho công việc của mình sau này.
Lời cảm ơn: em xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Nguyễn ngọc Sơn giảng viên khoa kinh tế kế hoạch và phát triển đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề án. Đồng thời em cũng cảm ơn thư viện trường đại học kinh tế quốc dân đã cung cấp thông tin và tài liệu giúp em hoàn thành bài viết.
Bài viết của tôi được chia thành ba chương chính là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kế hoạch hóa trong doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Quy trình và các bước lập kế hoạch trong doanh nghiệp.
Chương 3: Thực trạng lập và thực hiện kế hoạch trong các doanh nghiệp nhà nước. Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lập và thực hiện kế hoạch trong doanh nghiệp.
CHƯƠNG I
Cơ sở lý luận về kế hoạch hóa trong doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường.
1.Khái quát chung về kế hoạch trong doanh nghiệp.
1.1.Khái niệm kế hoạch trong doanh nghiệp.
Từ lâu trong các doanh nghiệp các nhà quản lý doanh nghiệp luôn đặt ra cho doanh nghiệp mình những mục tiêu, những hướng đi mà doanh nghiệp sẽ đi trong tương lai. Những mục tiêu, cái đích đó được cụ thể hóa trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhưng chiến lược là một tầm nhìn xa trong tương lai, nó nói lên viễn cảnh mà doanh nghiệp muốn có được vì vậy để cụ thể hóa chiến lược phát triển của doanh nghiệp thì cần có các kế hoạch cụ thể trong ngắn hạn và trung hạn để thực hiện các quyết định trong chiến lược. Tuy nhiên do kế hoạch hóa trong doanh nghiệp là một công cụ quản lý trong doanh nghiệp nên nó có vai trò tịch cực và tiêu cức nhất định nếu không được sử dụng một cách linh hoạt. Nó đóng vai trò tích cực khi giúp cho các hoạt động của doanh nghiệp được vận hành trơn tru, tránh được những sai lầm nhưng đôi khi nếu quá cứng nhắc theo kế hoạch thì nó sẽ kìm hãm sự sáng tạo, linh hoạt trong hoạt động để đối phó với những biến đổi ngoài kế hoạch.
Vậy hiểu theo cách chung nhất thì kế hoạch hóa là một phưong thức quản lý theo mục tiêu, nó là hoạt động của con người trên cở sở nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội và tự nhiên đặc biệt là các quy luật kinh tế để tổ chức quản lý các đơn vị kinh tế kĩ thuật, các ngành, các lĩnh vực hoặc toàn bộ nền sản xuất xã hội theo những mục tiêu thống nhất.
Vì vậy kế hoạch ở đây có thể bao trùm ở những quy mô và phạm vi khác nhau. Nó có thể là kế hoạch hóa nền kinh tế nói chung trên phạm vi cả nước, bao trùm lên tất cả các ngành kinh tế. Hoặc nó cũng có thể là kế hoạch hóa cho từng ngành kinh tế riêng lẻ, hay có thể là kế hoạch hóa vùng, địa phương trên phạm vi một vùng lãnh thổ nhất định, và ở cấp độ nhỏ nhất nó là kế hoạch hóa trong doanh nghiệp. Vậy kế hoạch hóa trong doanh nghiệp hay là kế hoạch hóa hoạt động sản xuất doanh nghiệp là phương thức quản lý của doanh nghiệp theo mục tiêu, nó bao gồm các hành vi can thiệp của chủ thể doanh nghiệp tới các hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích đạt được mục tiêu đề ra cho doanh nghiệp.
Như vậy kế hoạch hóa trong doanh nghiệp thể hiện được kĩ năng dự báo các xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt được, tổ chức triển khai các hành động để đạt được mục tiêu đề ra, nó bao gồm các bước là:
Soạn lập kế hoạch, đây là bước đầu tiên và cũng là bước quan trọng nhất vì chỉ có nhờ lập kế hoạch chính xác dựa trên các thông tin đầy đủ về thực trạng của doanh nghiệp, trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động mà doanh nghiệp đang nắm giữ, tiềm lực về vốn của doanh nghiệp… để từ đó có thể tìm ra điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp từ đó mà có thể phát huy được hết các tiềm năng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng cần dựa trên các phân tích về điều kiện môi trường bên ngoài của doanh nghiệp như xu hướng biến động của nhu cầu thị trưòng, tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tình hình chính trị xã hội trong nước… từ đó tìm ra những cơ hội, thách thức mà thị trường đem lại. Để từ đó có những phương án tận dụng tốt nhất những cơ hội mà thị trường đem lại hay là có các phương án để đối phó với những thách thức từ thị trường để giúp cho doanh nghiệp vượt qua những thách thức đó với mục đích cuối cùng là đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Để những mục tiêu đề ra không mang tính chủ quan mà phải có căn cứ dựa trên các nguồn lực bên trong doanh nghiệp và điều kiện bên ngoài doanh nghiệp. Vì vậy bản kế hoạch của doanh nghiệp được hình thành thông qua việc trả lời các câu hỏi là doanh nghiệp đang đứng ở đâu? Doanh nghiệp muốn đi đến đâu? Và làm thế nào để đi đến đó?
Bước tiếp theo là tổ chức triển khai thực hiện, kiểm tra đánh giá, điều chỉnh kế hoạch. Sau khi đã soạn lập được một kế hoạch hoàn chỉnh, phù hợp với mục tiêu và khả năng của doanh nghiệp rồi thì việc tổ chức triển khai thực hiện nó như thế nào là rất quan trọng, nó thể hiện sự phối hợp hành động giữa các bộ phận, đơn vị chức năng trong doanh nghiệp nhằm thực hiện một mục tiêu chung của doanh nghiệp đã được đặt ra trong bản kế hoạch. Nó thể hiện cách thức huy động các nguồn lực trong và ngoài doanh nghiệp như thế nào, hơn thế nữa là việc sử dụng các nguồn lực sao cho có hiệu quả nhất. Việc tổ chức thực hiện không đơn thuần chỉ là việc triển khai các hoạt động cần thiết mà nó còn là quá trình dự báo những thay đổi của thị trưòng hay những phát sinh bất ngờ trong quá trình thực hiện và khả năng ứng phó với những thay đổi, phát sinh đó của doanh nghiệp. Còn quá trình kiểm tra đánh giá giúp cho doanh nghiệp thúc đẩy quá trình thực hiện, phát hiện ra những biến đổi bất ngờ trong quá trình thực hiện và tìm ra những nguyên nhân gây ra những biến đổi đó để từ đó tìm cách khắc phục những phát sinh đó. Còn công tác đánh giá sẽ giúp cho doanh nghiệp đánh giá những mặt đạt được và những mặt hạn chế chưa đạt được để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm từ những thành công và thất bại đó. Với những bài học kinh nghiệm đó sẽ giúp cho doanh nghiệp trong công tác xây dựng kế hoạch sau này được tốt hơn.
1.2.Chức năng của kế hoạch hóa trong doanh nghiệp.
Kế hoạch hóa trong doanh nghiệp với tư cách là công cụ quản lý theo mục tiêu vì vậu nó có vai trò quan trọng trong công tác quản lý vi mô trong doanh nghiệp, nó được thể hiện qua các chức năng sau đây.
Chức năng ra quyết định. Kế hoạch hóa cho phép ta xây dựng quy trình ra quyết định và phối hợp các quyết định. Vì trong doanh nghiệp có nhiều bộ phận, đơn vị chức năng khác nhau và mỗi bộ phận đơn vị chức năng này có những vai trò khác nhau trong doanh nghiệp. Nên nhiều khi các bộ phận này có thể không thống nhất với nhau trong quá trình quyết định các hoạt động của doanh nghiệp vì vậy kế hoạch hóa sẽ giúp cho quá trình ra quyết định của các bộ phận sẽ theo một quy trình thống nhất để tránh tình trạng xung đột giữa các đơn vị bộ phận. Nhưng khi đã ra được quyết định rồi thì việc phối hợp các quyết định đó lại với nhau cũng không phải đơn giản vì vẫn có sự khác biệt giữa các quyết đinh của các bộ phận chức năng cho nên nó cần có công tác kế hoạch hóa để phối hợp các quyết định đó sao cho các hoạt động của doanh nghiệp được vận hành suôn sẻ. Đây có thể là một trong những điểm mạnh của hệ thống kế hoạch hóa trong doanh nghiệp.
Chức năng giao tiếp, kế hoạch hóa trong doanh nghiệp có chức năng giao tiếp vì nó tạo điều kiện cho các nhà lãnh đạo và quản lý của doanh nghiệp có thể giao tiếp được với nhau, nó cho phép lãnh đạo các bộ phận có thể phối hợp trao đổi xử lý các thông tin và những vấn đề trong doanh nghiệp. Khi có một quy trình kế hoạch thống nhất nó sẽ góp phần cung cấp trao đổi thông tin giữa các phòng ban chức năng trong doanh nghiệp với nhau, từ đó các lãnh đạo của các bộ phận khác nhau có thể nắm bắt được những thông tin và các hoạt động của các bộ phận khác để từ đó mà có được những phương án hoạt động cho bộ phận mình sao cho phù hợp với các phòng ban bộ phận khác để đảm bảo cho mục tiêu của doanh nghiệp được thực hiện đúng theo kế hoạch đề ra.
Bản kế hoạch với tư cách là một tài liệu chứa đựng các chiến lược phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, trong đó còn chứa đựng các kế hoạch hành động của các bộ phận chức năng trong doanh nghiệp như kế hoạch sản xuất và dự trữ, kế hoạch Marketing, kế hoạch nhân sự, kế hoạch tài chính, kế hoạch nghiên cứu triển khai... Cũng như kế hoạch tổng thể của doanh nghiệp. Vì vậy kế hoạch sẽ đóng vai trò như một kênh thông tin từ ban lãnh đạo xuống các phòng ban chức năng cũng như tới từng nhân viên trong doanh nghiệp để huy động nguồn lực giúp thực hiện các mục tiêu đề ra đồng thời phản hồi những thông tin từ dưới lên tới ban lãnh đạo về quá trình thực hiện kế hoạch, từ thông tin phản hồi đó mà ban lãnh đạo có thể kiểm tra đánh giá được công tác tổ chức thực hiện nếu thấy những sai lệch sẽ có phương án điều chỉnh. Kế hoạch không chỉ đóng vai trò là kênh thông tin dọc mà nó còn có chức năng là kênh thông tin ngang giữa các phòng ban chức năng. Vì các kế hoạch chức năng có mối quan hệ với nhau rất mật thiết nên việc trao đổi thông tin với nhau giữa các phòng ban là rất quan trọng, nó sẽ giúp cho các bộ phận nắm được tiến độ của các bộ phận khác từ đó có những điều chỉnh để kế hoạch bộ phận cũng như kế hoạch tổng thể đi đúng tiến độ.
Chức năng quyền lực, khi một bản kế hoạch được xây dựng hoàn chỉnh phù hợp với những điều kiện bên trong và bên ngoài doanh nghiệp thì bản kế hoạch đó như là một bản tuyên bố của ban lãnh đạo doanh nghiệp tới các bộ phận và các nhân viên trong doanh nghiệp về chiến lược phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, trong đó sẽ ghi rõ những mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt được trong thời gian tới. Với những mục tiêu nhiệm vụ được đặt ra trong bản kế hoach thì ban lãnh đạo doanh nghiệp đã khẳng định quyền lực lãnh đạo của họ trong doanh nghiệp cũng như với các nhân viên. Nhờ có kế hoạch mà các hoạt động trong doanh nghiệp được quản lý một cách chặt chẽ, hợp lý và từ đó sẽ giúp cho mọi người đều có thể tham gia đóng góp ý kiến vào bản kế hoạch.
1.3. Nguyên tắc kế hoạch hóa trong doanh nghiệp.
Khi chúng ta làm một việc gì thì thông thường đều có những nguyên tắc nhất định. Vì vậy trong công tác kế hoạch hóa cũng không thể không có những nguyên tắc trong xây dựng kế hoạch. Nhờ có những nguyên tắc này sẽ giúp cho bản kế hoạch được xây dựng một cách hợp lý, sát với thực tế hơn và giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra. Vậy kế hoạch hóa trong doanh nghiệp được tuân theo những nguyên tắc sau đây.
Nguyên tắc thống nhất, do doanh nghiệp được cấu thành từ nhiều bộ phận khác nhau, mỗi bộ phận có hoạt động chức năng riêng lẻ khác nhau. Cho nên trong công tác quản lý doanh nghiệp cần có sự thống nhất để đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp được thống nhất. Trong doanh nghiệp có các mối quan hệ dọc và mối quan hệ ngang. Mối quan hệ dọc thể hiện quan hệ từ trên xuống giữa ban lãnh đạo doanh nghiệp và các phòng ban chức năng cũng như các nhân viên trong doanh nghiệp và mối quan hệ này cũng thể hiện quan hệ quyền lực lãnh đạo của người chủ doanh nghiệp với các nhân viên. Còn mối quan hệ ngang là mối quan hệ giữa các phòng ban chức năng với nhau, nó thể hiện quan hệ tác nghiệp trao đổi thông tin với nhau giữa các bộ phận trong doanh nghiệp. Nhờ có mối quan hệ này mà các bộ phận trong doanh nghiệp có thể nắm bắt hoạt động của nhau từ đó có thể giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình thực hiện.
Trong doanh nghiệp có nhiều đơn vị chức năng với các kế hoạch của riêng mình để thực hiện chức năng của mình. Cho nên có sự phân định rất rõ ràng giữa về chức năng giữa các bộ phận. Nhưng khi các bộ phận tiến hành xây dựng kế hoạch cho bộ phận mình đều phải căn cứ vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm thực hiện những mục tiêu chung của toàn doanh nghiệp vì vậy kế hoach tổng thể của doanh nghiệp không thể chỉ là sự lắp ghép đơn thuần của các bộ phận mà nó còn phải là một hệ thống các kế hoạch có liên quan chặt chẽ với nhau thể hiện sự thống nhất từ trên xuống và giữa các kế hoạch bộ phận.
Nguyên tắc tham gia, nguyên tắc này có mối quan hệ với nguyên tắc thống nhất, theo đó thì nguyên tắc này cho phép mọi thành viên trong doanh nghiệp đều có thể tham gia đóng góp ý kiến vào quá trình xây dựng kế hoạch. Nhờ có sự tham gia này mà bản kế hoạch sẽ thể hiện đầy đủ ý chí của mọi thành viên trong doanh nghiệp chứ không của riêng ban lãnh đạo. Nó thể hiện sự thống nhất giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Nếu nguyên tắc này được thực hiện một cách đầy đủ thì nó sẽ đem lại những lợi ích sau.
Thứ nhất các thành viên trong doanh nghiệp có thể trao đổi thông tin cho nhau nhờ đó mà họ sẽ có được những hiểu biết sâu sắc hơn về doanh nghiệp cũng như các hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp. Nhờ đó mà bản kế hoạch sẽ nhận được đầy đủ thông tin từ mọi phía phản ánh chính xác tình hình bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
Nhờ có sự tham gia của các thành viên trong doanh nghiệp mà bản kế hoạch sẽ không còn là của riêng ban lãnh đạo doanh nghiệp nữa mà nó sẽ là sản phẩm của tất cả mọi thành viên trong doanh nghiệp. Khi đây đã là sản phẩm của toàn thể doanh nghiệp thì các thành viên sẽ cảm thấy mình có trách nhiệm với bản kế hoạch và cố gắng thực hiện một cách tốt nhất bổn phận trách nhiệm của mình trong bản kế hoạch, từ đó sẽ giúp bản kế hoạch được thực hiện có hiệu quả hơn.
Cho phép mọi người tham gia vào công tác kế hoạch hóa sẽ giúp cho mọi người phát huy được tính chủ động sáng tạo của họ, tạo cho họ có động lực để lao động có hiệu quả hơn.
Để có thể thu hút được mọi người cùng tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp thì ban lãnh đạo của doanh nghiệp cần có những chính sách mô hình khuyến khích mọi người tham gia, làm cho họ cảm thấy khi tham gia vào công tác kế hoạch hóa họ có được lợi ích trong đó.
Nguyên tắc linh hoạt, do các doanh nghiệp hoạt đông trong nền kinh tế thị trường, với rất nhiều biến động diễn ra từng ngày từng giờ. Cho nên công tác kế hoạch hóa không thể cứng nhắc mà đòi hỏi phải luôn linh hoạt chủ động để có thể đối phó được với những thay đổi bất ngờ của thị trường. Kế hoạch được xây dựng càng linh hoạt mềm dẻo thí sẽ càng giảm thiểu được những rủi ro do thay đổi của thị trường gây ra. Nguyên tắc linh hoạt được thể hiện thông qua các yếu tố sau.
Kế hoạch được xây dựng phải có nhiều phương án, mỗi phương án là một kịch bản mô phỏng tương ứng với từng điều kiện thị trường và cách huy động nguồn lực cụ thể.
Trong xây dựng kế hoạch thì thì chúng ta không chỉ xây dựng kế hoạch chính mà còn phải xây dựng những kế hoạch phụ, kế hoạch dự phòng và kế hoạch bổ sung, để trong những tình huống bất khả kháng chúng ta có thể thay đổi kế hoạch hành động.
Các kế hoạch cần phải được xem xét một cách thường xuyên liên tục. Do trong các kế hoạch đều đặt ra các mục tiêu cho tưong lai mà tương lại là một thứ xa vời khó nắm bắt vì vây người lãnh đạo doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra để phát hiện những thay đổi trong quá trình thực hiện, tìm ra những nguyên nhân của những phát sinh đó để từ đó có những điều chỉnh và bước đi phù hợp để giải quyết những vấn đề phát sinh đảm bảo cho kế hoạch đi đúng hướng. Nhờ có tính linh hoạt trong xây dựng và thực hiện kế hoạch mà các nhà xây dựng và thực hiện kế hoạch không cảm thấy kế hoạch là sự cứng nhắc mang tính rằng buộc và bị kế hoạch chi phối mà trái lại họ cảm thấy họ là người chủ động trong công tác xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch, họ thấy mình là chủ thể kế hoạch chi phối kế hoạch chứ không phải bị kế hoạch chi phối.
1.4.Phân loại kế hoạch trong doanh nghiệp.
Trên những góc độ khác nhau thì hệ thống kế hoạch hóa của doanh nghiệp được chia thành những bộ phận khác nhau.
1.4.1.Theo góc độ thời gian.
Theo góc độ thời gian là sự phân đoạn kế hoạch theo thời gian. Theo đó thì có các loại kế hoạch sau.
Kế hoạch dài hạn, nó là kế hoạch bao trùm lên một khoảng thời gian dài thường là 10 năm. Trong bản kế hoạch này thường nêu lên những mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp, những định hướng của doanh nghiệp trong thời gian dài..
Kế hoạch trung hạn, nó là sự cụ thể hóa của kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn thường kéo dài khoảng từ ba đến năm năm.
Kế hoạch ngắn hạn thường là kế hoạch hàng năm và kế hoạch tiến độ. Nó thường bao gồm các phương án sử dụng các nguồn lực một cách cụ thể để đạt được mục tiêu trong kế hoạch dài hạn và trung hạn.
Nhưng trong điều kiện ngày nay với những biến đổi nhanh chóng của thị trường và khoa học công nghệ thì việc phân chia kế hoach theo thời gian chỉ còn mang tính tương đối. Khi mà khoa học công nghệ thay đổi nhanh chóng, kĩ thuật sản xuất nhanh chóng trở lên lạc hậu, chu kì sản xuất ngày càng ngắn, thì những kế hoạch từ ba đến năm năm cũng có thể coi là dài. Các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn phải có sự liên kết chặt chẽ với nhau, không được loại bỏ lẫn nhau. Cần coi trọng vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa kế hoạch ngắn hạn và kế hoạch dài hạn, giữa lợi ích cục bộ trước mắt và lợi ích lâu dài vì nhiều khi quyết định trong ngắn hạn với lợi ích cục bộ trước mắt nếu không được xem xét tới các lợi ích lâu dài trong kế hoạch dài hạn sẽ dẫn tới làm thất bại mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp.
1.4.2.Theo góc độ nội dung, tính chất hay cấp độ kế hoạch.
Theo góc độ nội dung, tính chất của kế hoạch có thể chia kế hoạch trong doanh nghiệp thành các kế hoạch sau.
Kế hoạch chiến lược, nó thường được áp dụng với những doanh nghiệp lớn với quy mô sản xuất lớn và nhiều lao động. Quy mô doanh nghiệp càng lớn thì nó làm cho công tác quản lý doanh nghiệp trở lên càng phức tạp và khó khăn, đồng thời do tính chất cạnh tranh của thị trường ngày càng trở lên khốc liệt, với sự thay đổi của khoa học công nghệ ngày càng nhanh khiến cho doanh nghiệp rất khó trong việc xác định những mục tiêu trong tương lai.
Kế hoạch chiến lược sẽ cho phép doanh nghiệp cải thiện và củng cố vị thế cạnh tranh trên thị trường. Trong kế hoạch chiến lược là những mục tiêu định hướng cho doanh nghiệp và những biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Việc xây dựng kế hoạch chiến lược thường được xuất phát từ khả năng thực tế của doanh nghiệp, biểu hiện những phương án ứng phó với những điều kiện bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
Kế hoạch chiến thuật (kế hoạch tác nghiệp) nó là công cụ để chuyển các định hướng, mục tiêu của chiến lược thành các chương trình cụ thể cho từng bộ phận trong doanh nghiệp. Việc chia nhỏ ra thành các chương trình sẽ giúp cho mục tiêu của doanh nghiệp được thực hiện dễ dàng hơn với sự phối hợp của các bộ phận chức năng. Kế hoạch chiến thuật được thể hiện trong từng bộ phận của doanh nghiệp như kế hoạch Marketing, kế hoạch sản xuất, kế hoạch tài chính… Trong khi kế hoạch chiến lược tập trung vào xác định các mục tiêu dài hạn, những định hướng của doanh nghiệp trong tương lai thì kế hoạch tác nghiệp lại đi vào cụ thể từng bộ phận, lĩnh