1. Theo huyết thống: gia đình và gia tộc
Gia đình là cơ sở của xã hội. Gia đình truyền
thống là đại gia đình nhiều thế hệ (tam đại, tứ
đại đồng đường). Người Tây Nguyên còn có
nhà sàn dài cho Đại gia đình
Gia tộc với người Việt là rất quan trọng. Một người
làm quan, cả họ được nhờ
Xưa kia, làng là nơi ở của một họ: Đỗ xá, Trần xá,
Nguyễn xá v.v
24 trang |
Chia sẻ: anhquan78 | Lượt xem: 2147 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lịch sử - Bài 6: Văn hóa tổ chức đời sống nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 6:
Văn hóa tổ chức đời sống nông
thôn Việt Nam
Soạn giảng: TS Phan Quốc Anh
1. Theo huyết thống: gia đình và gia tộc
Gia đình là cơ sở của xã hội. Gia đình truyền
thống là đại gia đình nhiều thế hệ (tam đại, tứ
đại đồng đường). Người Tây Nguyên còn có
nhà sàn dài cho Đại gia đình
Gia tộc với người Việt là rất quan trọng. Một người
làm quan, cả họ được nhờ
Xưa kia, làng là nơi ở của một họ: Đỗ xá, Trần xá,
Nguyễn xá v.v
Tính tôn ty
• Quan hệ huyết thống là quan hệ theo hàng dọc
(lên đến cửu tộc)
Kị/cố Cụ Ông Cha Tôi Con Cháu Chắt Chút
Tôn ti gián tiếp (con chú, con bác, anh em họ) cũng được quy định
nghiêm ngặt: Xanh đầu con nhà bác, bạc đầu con nhà chú; Bé bằng củ
khoai, cứ vai mà gọi
Tính tôn ti dẫn đến óc gia trưởng. Tổ chức nông thôn theo huyết thống
nhiều khi gây cản trở sự phát triển, nhất là trong giai đoạn hiện nay,
cạnh tranh dòng họ “ma làng”
2. Tổ chức theo địa bàn cư trú:
Văn hóa làng
Điều kiện nông nghiệp lúa nước đòi hỏi mọi người
phải liên kết, hợp sức với nhau để vần công, đổi
công, để cùng nhau chống lụt bão, chống trộm
cướp và chống giặc ngoại xâm. Sự liên kết chặt
chẽ: bán anh em xa, mua láng giềng gần; một
giọt máu đào
Liên kết thành làng tạo nên dân chủ làng xã. Tính
chất dân chủ này kéo theo mặt trái là thói dựa
dẫm, ỷ lại, thói đố ky, cào bằng.
3. Tổ chức theo nghề nghiệp và sở thích:
Phường, hội
Phường là tập hợp những người làm cùng
một nghề thủ công như phường gốm làm sành
sứ; phường nề (xây dựng); phường chài (đánh cá);
phường vải (dệt); mộc, đúc đồng v.v
Hội là tổ chức của những người cùng sở
thích: tư văn (quan văn); Hội văn phả (nhà nho ko làm
quan); hội Bô lão (cụ ông); hội chư bà (cụ bà); hội cờ
tướng; hội tổ tôm v.v
Phường và hội là những tổ chức tự nguyện,
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau
4. Tổ chức theo hành chính:
thôn, xã
• Một làng nhiều khi cũng là một xã, cũng có
thể một xã gồm nhiều làng, trong làng lại
có thôn, xóm, ở Nam bộ có ấp. Ngày nay,
đơn vị hành chính của nước ta là thôn.
• Trong văn hóa làng xã, sự phân biệt dân
chính cư và dân ngụ cư là rất quan trọng
(dẫn đến cục bộ địa phương ngày nay)
Dân chính cư xưa chia làm 5 hạng:
- Chức sắc gồm những người đỗ đạt hoặc có
phẩm hàm
- Chức dịch gồm những người đang làm việc trong
xã
- Lão gồm những người thuộc hạng lão
- Đinh gồm con trai trưởng thành
- Ti ấu là hạng trẻ con
Quan viên hàng xã là 3 hạng đầu. Bộ máy hành
chính xưa kia gọn nhẹ. Đứng đầu là lý trưởng, dưới ông là
phó lý, đến hương trưởng, đến trương tuần (lo an ninh). Phương tiện
quản lý chủ yếu chỉ có hai loại sổ: Sổ đinh và sổ điền (con người và
ruộng đất)
5. Tính cộng đồng và tính tự trị
• Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên
trong làng lại với nhau. Do điều kiện xã hội nông
nghiệp lúa nước nên sự cố kết cộng đồng làng
xã Việt Nam.
• Tính tự trị xuất phát từ văn hóa làng xã có tính
chất biệt lập, cũng là sản phẩm của tính cộng
đồng làng. Mỗi làng là một “nước’ nhỏ khép kín
với nền kinh tế tự cung tự cấp, có “luật lệ”
(hương ước) riêng (phép vua thua lệ làng)
Làng xã Việt Nam
• Toàn quyền Đông Dương Paul Donmer năm
1905 nhận xét: Mỗi Làng xã Việt Nam truyền
thống được coi như “một nước cộng hòa nhỏ”,
độc lập trong giới hạn những quyền lợi địa
phương, được tổ chức chặt chẽ, có tính kỷ luật,
có trách nhiệm.
• Tính cộng đồng và tính tự trị là 2 đặc trưng bao
trùm nhất, quan trọng nhất, tồn tại song song
như hai mặt của một vấn đề trong văn hóa làng
xã Việt Nam
Sân đình – Bến nước – Cây đa
Cái đình là biểu tượng tập trung nhất của làng
về mọi phương diện
• Là “Trung tâm hành chính”, nơi diễn ra những
việc quan trọng như hội họp, thu sưu thu thuế,
giam giữ xử tội phạm nhân
• Là “Trung tâm văn hóa”, nơi tổ chức hội hè, ăn
uống (đình đám), nơi biểu diễn chèo tuồng.
• Là “Trung tâm sinh hoạt tôn giáo”: Thờ thần
hoàng làng, thần “bảo trợ” cho dân làng.
• Là “Trung tâm giao lưu tình cảm”: Qua đình ngả
nón trông đình”
BẾN NƯỚC
• Dần dần, do ảnh hưởng văn hóa phụ
quyền, đình chỉ còn là nơi của đàn ông.
Phụ nữ tụ quần nơi bến (giếng nước) để
rửa rau, vo gạo, giặt giũ và chuyện trò,
“buôn dưa lê”.
CÂY ĐA
• Cây đa cổ thụ đầu làng. Ở dưới gốc đa có
miếu thờ, khói hương nghi ngút, là nơi hội
tụ của thần thánh “Thần cây đa”, “sợ
thần sợ cả cây đa”. Quán nước cây đa là
nơi nghỉ chân gặp gỡ của nông dân đi làm
về, của khách qua đường. Cây đa cũng là
cánh cửa sổ liên thông với thế giới bên
ngoài.
LŨY TRE
• Rặng tre bao kín quanh làng như một thành lũy
kiên cố bất khả xâm phạm: đốt không cháy, trèo
không qua, đào đường hầm ko được (lũy). Hội
tụ hình ảnh lũy tre, cây đa, bến nước sân đình
chỉ có làng Việt Nam mới có. (làng Trung hoa có
tường đất bao bọc)
• Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng
gốc rễ, là nguyên nhân sinh ra ưu điểm và
nhược điểm về tính cách của người Việt.
TÍNH CỘNG ĐỒNG TÍNH TỰ TRỊ
Chức năng Liên kết các thành viên Xác định sự độc lập của làng
Biểu
tượng
Sân đình bến nước cây đa Lũy tre xanh
Hệ quả tốt - Tinh thần đoàn kết, tương trợ
- Tính tập thể, hòa đồng
- Nếp sống dân chủ bình đẳng
-Tình thần tự lập
-Tính cần cù
-Nếp sống tự cung tự cấp
Hệ quả
xấu
-Sự thủ tiêu vai trò cá nhân
-Thói dựa dẫm, ỷ lại
-Thói cào bằng, đố kỵ
-Óc tư hữu, ích kỷ
-Óc bè phái, địa phường
-Óc gia trưởng, tôn ti
Tính cộng đồng và tính tự trị của làng xã
• Tính cộng đồng nhấn mạnh vào tính
đồng nhất: cùng hội, cùng thuyền,
cùng cảnh ngộ > sẵn sàng đoàn kết
giúp đỡ, coi những người trong làng
như anh chị em trong nhà; tay đứt
ruột xót, lá lành đùm lá rách, chị ngã
em nâng > tính tập thể, hòa đồng, là
nguồn gốc của tính dân chủ - bình
đẳng theo địa bàn cư trú, theo sở
thích, theo giáp
• Thủ tiêu ý thức cá nhân: Do hòa tan vào
các MQH nên ý thức cá nhân bị thủ tiêu,
thường xử theo lối “hòa cả làng”; “đóng cửa
bảo nhau” (quan hệ thân tình từ họ hàng đến
hàng xóm láng giềng).
• Thói dựa dẫm ỷ lại vào tập thể: nước trôi
bèo trôi, nước nổi thì thuyền nổi; cha chung ko
ai khóc; lắm sãi ko ai đóng cửa chùa, sinh ra
tính an phận thủ thường, cả nể, ko muốn dứt
dây động rừng; anh ko đụng đến tôi thì tôi ko
đụng đến anh”
• Thói cào bằng, đố kỵ: Ko muốn cho ai
hơn mình (để cho tất cả đều đồng nhất,
giống nhau: “xấu đều hơn tốt lỏi; khôn độc
ngốc đàn, chết một đống còn hơn sống một
người; toét mắt là tại hướng đình”
• Làng Việt Nam ‘tự cung tự cấp”, tự đáp
ứng mọi nhu cầu cho cuộc sống làng
mình; mỗi nhà có vườn rau, chuồng gà; ao
cá, tự đảm bảo nhu cầu về ăn. Làm nhà
thì đã có tre, xoan, rơm rạ lợp nhà
• Óc tư hữu, ích kỷ: bè ai người nấy chống,
ruộng nhà ai nhà nấy đắp bờ; ai có thân người
ấy lo, ai có bò người ấy giữ; thân trâu trâu lo,
thân bò bò giữ; của mình thì giữ bo bo, của
người thì để cho bò nó ăn
• Óc bè phái, cục bộ địa phương, làng
nào biết làng ấy: trống làng nào làng nấy
đánh, thánh làng nào làng ấy thờ; trâu ta ăn cỏ
đồng ta; ta về ta tắm ao tatrai làng ta quyết
giữ gái làng ta.
• Óc gia trưởng, tôn ti: Tôn ti là tổ chức
nông thôn theo huyết thống là truyền
thống văn hóa tốt đẹp nhưng khi gắn với
óc gia trưởng thì lại sinh ra quyền huynh
thế phụ, áp đặt, sống lâu nên lão làng; áo
mặc ko qua khỏi đầu> trở thành lực cản
rất đáng sợ của sự phát triển (gia đình chủ
nghĩa, dòng họ chủ nghĩa)
• Với lối tư duy tổng hợp, biện chứng của
nguyên lý âm dương dẫn đến sự ứng xử
nước đôi; vừa là, vừa làvừa có tinh thần đoàn
kết tương trợ vừa có óc tư hữu, ích kỷ và thói cào
bằng; vừa có tính tập thể hòa đồng vừa bè phái, địa
phương; vừa có tính tự lập vừa coi nhẹ vai trò cá
nhân; vừa cần cù vừa dựa dẫm ỷ lại..Tùy lúc tùy
nơi mà mặt tốt hay mặt xấu sẽ được phát
huyhòa bình thì cạnh tranh khốc liệt, cục
bộ địa phương, nhưng mỗi khi đất nước bị
xâm lăng thì cả nước sát cánh cùng đứng
dậy
Làng nam bộ
• Hình thành cách nay hơn 300 năm, làng Nam
bộ là dân Bắc bộ vào khai khẩn. Làng Nam bộ
được hình thành dọc theo bờ sông và bờ kinh
rạch, trên những giồng đất cao (miệt giồng).
Bờ tre chỉ còn là một biểu tượng đánh dấu
ranh giới giữa các ấp, thôn. Thành phần cư
dân của Nam bộ thường hay biến động, không
bị gắn chặt với làng rễ cội như ở Bắc bộ. Tính
cách người Nam bộ do vậy cũng phóng
khoáng hơn; làm bao nhiêu ăn nhậu bấy
nhiêu, ko cần biết đến ngày mai “xả láng, sáng
dậy sớm”.
• Thành phần cư dân không ổn định, vì nơi
đây còn quá nhiều vùng đất chưa khai
phá, nông dân hay tá điền có thể đi tới
đâu cũng được. Làng trải dài theo các
dòng kinh, giao thông nước thuận lợi, nhất
là khi kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển.
Địa văn hóa Nam bộ tạo nên tính cách
người Nam bộ; phóng khoáng, văn hóa
mở, vì vậy dễ tiếp nhận văn hóa mới từ
các luồng văn hóa. Nam bộ là nơi tiếp
nhận văn hóa phương Tây như Pháp –
Mỹ.
• Tuy nhiên, dù hay biến động, người
Nam bộ vẫn sống thành làng với thấp
thoáng bóng tre, mỗi làng vẫn có một
ngôi đình với tín ngưỡng thờ thành
hoàng làng. Hàng năm cư dân vẫn tụ
họp nhau ở lễ hội. Dù thuận lợi trong
canh tác nông nghiệp, nhưng vẫn giữ
nếp cần cù, coi trọng tính cộng đồng.
Hàng xóm, láng giềng vẫn là quan
trọng: “nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận
giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền”.
• Bức tranh của làng Nam bộ đã góp
phần làm nên tính thống nhất của dân
tộc Việt Nam, văn hóa Việt Nam.
• Văn hóa khu vực Nam bộ còn giữ nhiều
yếu tố văn hóa người Việt, trong khi đó
ở Bắc bộ đã mất đi. Ví dụ như đàn ông
ở Nam bộ còn búi tó v.vĐó là thuyết
ngoại vi trên biên trong văn hóa học