Về phương diện lý thuyết, liên kết phát triển nội vùng và liên vùng dựa trên cơ sở
phân công lao động với các lợi thế so sánh khác nhau là tiền đề nâng cao hiệu quả đầu tư
phát triển vùng nói chung và đầu tư công nói riêng. Liên kết phát triển kinh tế là yêu cầu
tất yếu của nền kinh tế thị trường với các chuỗi ngành hàng được bố trí trên một không
gian lãnh thổ nhất định, tạo nên các cực tăng trưởng. Khi các chủ thể kinh tế cũng như các
địa phương được thực thi các quyền hành trong khung khổ thể chế phân quyền, phi tập
trung hóa với các lợi ích cụ thể sẽ là tiền đề để thúc đẩy mạnh mẽ hơn các liên kết đầu tư
phát triển trên không gian các vùng.
26 trang |
Chia sẻ: thanhlam12 | Lượt xem: 793 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
418
LIÊN KẾT VÙNG TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN
TS. Nguyễn Văn Huân140
Về phương diện lý thuyết, liên kết phát triển nội vùng và liên vùng dựa trên cơ sở
phân công lao động với các lợi thế so sánh khác nhau là tiền đề nâng cao hiệu quả đầu tư
phát triển vùng nói chung và đầu tư công nói riêng. Liên kết phát triển kinh tế là yêu cầu
tất yếu của nền kinh tế thị trường với các chuỗi ngành hàng được bố trí trên một không
gian lãnh thổ nhất định, tạo nên các cực tăng trưởng. Khi các chủ thể kinh tế cũng như các
địa phương được thực thi các quyền hành trong khung khổ thể chế phân quyền, phi tập
trung hóa với các lợi ích cụ thể sẽ là tiền đề để thúc đẩy mạnh mẽ hơn các liên kết đầu tư
phát triển trên không gian các vùng.
Ở Việt Nam, những năm gần đây bắt đầu hướng tới các nghiên cứu phát triển vùng
và liên vùng, song chưa thật sự trở thành các luận cứ khoa học cho phân tích chính sách
phát triển vùng. Liên kết vùng hiện đang bất cập, chưa chặt chẽ, gây lãng phí đầu tư công
trong nhiều năm qua.
1. Một số vấn đề lý luận liên kết vùng
Trước hết cần hiểu rõ phân định vùng là gì?
Có nhiều quan điểm khác nhau phân định về vùng lãnh thổ phát triển kinh tế – xã
hội. Quan điểm cực tăng trưởng (tiêu biểu Gustav Ranis, Strauss, Hall) lưu ý đến tính chất
tăng trưởng kinh tế của các vùng có lợi thế so sánh có thể tiến hành công nghiệp hóa
nhanh, làm nền tảng cho quá trình công nghiệp hóa trên toàn bộ nền kinh tế. Trong các
cực tăng trưởng này tập trung các ngành công nghiệp mũi nhọn và các ngành bổ trợ, các
hoạt động dịch vụ phục vụ cho phát triển công nghiệp với một hạ tầng phát triển có thể
kết nối với các cảng biển, các đầu mối giao thông. Điểm đúng đắn của quan điểm này là
tìm ra các điểm đột phá phát triển và tạo nên các tác động lan tỏa phát triển. Hiện nay, ở
các nước đang vận dụng học thuyết này để xây dựng các mô hình phát triển khu chế xuất,
vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế.
Một số trường phái khác quan niệm vùng thiên về cấu trúc kinh tế, có nghĩa là bố
trí cơ cấu kinh tế trên một không gian lãnh thổ nhất định. Quan điểm này thiên lệch về cơ
cấu kinh tế, mặc dầu chiến lược cơ cấu vùng là hết sức quan trọng trong phân bố lãnh thổ
phát triển. Nhưng một chiến lược kinh tế hợp lý sẽ được vận hành có hiệu quả còn phải
tính đến các yếu tố địa chính trị, các nhóm xã hội, thể chế vận hành vùng v.v...
140 Phòng Nghiên cứu phát triển kinh tế vùng,Viện Kinh tế Việt Nam
419
Hệ thống quan điểm khác nhau lại thiên về địa chính trị, xem vùng kinh tế là đặc
trưng của các nhóm xã hội có liên quan đến các quá trình kinh doanh của các chủ thể kinh
tế. Phái tân cổ điển, trong học thuyết của mình, cũng nêu lên tính chất xã hội của các vùng
kinh tế. Họ lưu ý đến khía cạnh các lợi ích thông qua phân chia lợi nhuận của các nhóm
xã hội để xem xét các vùng kinh tế. Họ cho rằng sự khác nhau căn bản giữa các vùng kinh
tế là sự dôi dư nguồn lợi nhuận có được từ kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc nhóm
chính trị xã hội khác nhau. Sự phiến diện trong xem xét vùng kinh tế chỉ coi trọng đến lợi
ích kinh tế của các nhóm xã hội sẽ dẫn đến việc hoạch định chiến lược cơ cấu thiên lệch
về các ngành có lợi ích kinh tế cao, không tuân thủ lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế.
Mặt khác đặc trưng cấu trúc (cơ cấu) ngành kinh tế, ở một góc độ nào đó, lại là các ưu thế
về vị trí địa lý, nguồn lực khác quyết định. Hơn nữa sự phân hóa giai tầng xã hội trong
vùng là không thể tránh khỏi khi các nhóm xã hội khác nhau ứng xử với các thế mạnh
kinh tế của vùng (bao gồm cả các quan hệ kinh tế đã có của vùng) có sự khác nhau.
Qua sự phân tích nhiều quan điểm khác nhau về phân định vùng kinh tế và qua
nghiên cứu thực tiễn phát triển kinh tế vùng chúng tôi có thể lưu ý một số điểm khi phân
định vùng:
- Một lãnh thổ có các điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý tương đồng nhau
- Vị trí kinh tế và trình độ phát triển kinh tế tương hợp
- Đặc trưng của các nguồn lực phát triển tương đồng nhau
- Các quan hệ kinh tế của các nhóm xã hội, của các doanh nghiệp, của các đơn vị
hành chính v.v có tác dụng thúc đẩy phát triển hay kìm hãm sự phát triển của các vùng
phụ cận.
- Đặc trưng khác biệt của vùng so với các vùng khác như thế nào. Hay nói cách
khác là lợi thế so sánh của vùng và mỗi địa phương trong vùng.
Các quan điểm về liên kết vùng
Nghiên cứu phát triển vùng và liên kết vùng khá phát triển trong những năm 1950
của Thế kỷ 20. Nhưng khoa học nghiên cứu vùng được xem xét trở thành một lĩnh vực
nghiên cứu chính thức, là một khoa học có hệ lý thuyết, các phương pháp và các công cụ
tính toán vào tháng 12/1954. Trong những thập niên 1960 hệ lý thuyết về vùng bắt đầu phát
triển mạnh khi trên thực tế, những liên kết phát triển giữa các vùng nông nghiệp và công
nghiệp phát triển mạnh, khi sự phân bố không gian lãnh thổ công nghiệp, nông nghiệp vùng
được triển khai sâu rộng ở các nước Châu Âu và Châu Mỹ. Hiệp hội Khoa học nghiên cứu
vùng cũng ra đời vào thời gian đó.
420
Trong khoa học vùng, vấn đề liên kết nội vùng và liên vùng, hay gọi tắt là liên kết
vùng được chú ý nghiên cứu khá bài bản về lý thuyết cũng như ứng dụng thực tiễn, làm cơ
sở để xây dựng các quy hoạch phát triển vùng ở các nước trên thế giới.
Phái Kinh tế học cổ điển không tập trung nghiên cứu các vấn đề phát triển vùng
một cách bài bài, song những hàm ý về liên kết địa phương trong phát triển vùng đã được
nêu lên. David Ricardo (1772-1823) trong cuốn Principles of Political Economy and
Taxation (Những nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khóa – bản tiếng Việt do nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành năm 2002) đã cổ vũ cho việc phát triển thương mại
dựa trên lợi thế so sánh. Dựa trên các lợi thế so sánh về lao động, về nguồn tài nguyên
thiên nhiên để tạo nên các trung tâm kinh tế lớn. Richardo cũng cho rằng, các trung tâm
kinh tế này sẽ đầu tàu cho sự phát triển kinh tế quốc gia.
Trong lý thuyết phát triển, thuật ngữ liên kết được sử dụng đầu tiên trong các công
trình của Perroux141 (1955) trong tác phẩm "Những nguyên lý kinh tế học", ông đã luận
chứng về các liên kết theo cách tiếp cận tính lan tỏa dựa vào lý thuyết về “cực tăng
trưởng”. Quan điểm của ông là thiết lập các vùng có các ngành với các doanh nghiệp lớn
có sức hút mạnh, tức là tập trung các hoạt động kinh tế ở những khu vực năng động nhất
tạo nên "cực tăng trưởng" của vùng. Các cực tăng trưởng này có sức lan tỏa, và sức hút
dòng hàng hóa nguyên liệu và lao động trong các khu vực khác của vùng và ngoài vùng.
Sự tác động lan tỏa này sẽ thúc đẩy hình thành không gian liên kết kinh tế và mạng lưới
buôn bán, và hình thành một tập hợp các liên kết kinh tế giữa cực tăng trưởng và các vùng
xung quanh. Mỗi cực tăng trưởng như vậy có một vai trò nhất định, dần dần sẽ phát triển
và lan tỏa kéo theo các khu vực khác theo vết dầu loang. Ông minh chứng rằng, tăng
trưởng và phát triển không thể xuất hiện đồng đều ở mọi nơi với một nguồn lực tới hạn
mà trước hết tập trung ở một số điểm có lợi thế phát triển hơn và sau đó sẽ lan tỏa qua
các kênh khác nhau với những hiệu ứng khác nhau đối với nền kinh tế.
Chúng tôi cho rằng, lý thuyết liên kết phát triển theo quan điểm của ông là hình
thành các không gian kinh tế để thúc đẩy sự phát triển với lựa chọn các cực phát triển đầu
tiên. Nó sẽ xóa bỏ ranh giới địa lý hành chính. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, quan điểm của ông về liên kết phát triển vùng là hợp lý.
Jacques Raoul Boudeville (1966)142, trong tác phẩm "Problem of regional
Economic planing" đã phân tích các vấn đề quy hoạch phát triển vùng dựa trên nguyên lý
141 François Perroux (1903-1987), là nhà kinh tế học lớn của Pháp; xem chi tiết về giới thiệu lý thuyết
kinh tế của ông qua tác phẩm THE “NEW” ECONOMIC THEORIES của Helena Marques;
www.fep.up.pt.
142Jacques Raoul Boudeville (1919) nhà kinh tế học của Pháp, học có nhiều tác phẩm nghiên cứu về Phát
triển vùng phát triển lý thuyết của Perroux. Tác phẩn (5) trên đây do nhà xuất bản Edinburgh University
Press, xuất bản lần thứ 8, năm 1974.
421
phân tích các lợi thế phát triển và cực tăng trưởng trong các vùng cụ thể. Ông cho rằng,
những phân tích về các nguồn lực phát triển, năng lực thương mại và chỉ ra được những
lợi thế so sánh trong việc định hình phát triển vùng là cần thiết trong việc hoạch định kế
hoạch phát triển vùng. Các liên kết sẽ được hình thành trong từng vùng với những lợi thế
khác nhau của các địa phương sẽ tạo nên phân công lao động. Nó sẽ hình thành các trung
tâm phát triển.
Quan điểm nghiên cứu của ông dựa trên quan điểm của Perroux. Song ông đã cố
gắng nhấn mạnh yếu tố địa lý trong lý thuyết cực tăng trưởng bằng cách đưa ra các ranh
giới rõ ràng về mặt địa lý của các hiệu ứng phát triển. Ông nhấn mạnh, các yếu tố lợi thế
so sánh trong phát triển được khai thác dựa trên hệ thống các doanh nghiệp. Tính phụ
thuộc lẫn nhau của các ngành trong việc phát triển thương mại và sản xuất sẽ thúc đẩy
liên kết vùng phát triển. Để có thể thúc đẩy phát triển vùng cả về quy mô kinh tế và không
gian phát triển không chỉ phân tích các quan hệ phụ thuộc lẫn nhau của các nhóm doanh
nghiệp mà cần nghiên cứu các vấn đề của tập trung không gian sản xuất. Lợi thế quy mô
kinh tế sẽ tăng được năng lực cạnh tranh của vùng và đồng thời tăng sự lan tỏa phát triển.
Đi xa hơn Perroux, ông đã khẳng định rằng, sự tập trung kinh tế và công nghiệp đó sẽ
hình thành các đô thị và sẽ có sự tương tác giữa cực tăng trưởng/ đô thị với các vùng kề
cận chịu ảnh hưởng lan tỏa của nó.
John Friedmann (1966)143 , trong tác phẩm Regional development policy: A case
study of Venezuela; Cambridge, Mass: MIT Press đã đưa ra một cách tiếp cận về liên kết
không gian trong phát triển vùng tương đối giống lý thuyết cực tăng trưởng của Perroux
là mô hình trung tâm - ngoại vi. Quan điểm của ông nhấn mạnh về tổ chức không gian
vùng với các liên kết sản xuất và thương mại trong một trung tâm có sự dồi dào về các
nguồn lực, trong đó có nguồn lực con người có chất lượng tay nghề cao. Ở những trung
tâm này, vì vậy có sự phát triển và đổi mổi liên tục dẫn đến ảnh hưởng lan tỏa thu hút sự
phát triển ở các vùng ngoại vi. Các vùng ngoại vi có nhiều lao động ở một trình độ thấp
hơn và sự phát triển lại phụ thuộc vùng trung tâm.
Với cách tiếp cận nghiên cứu về đầu vào – đầu ra, trong tác phẩm The strategy of
economic development, GS Hirschman144 (1958) khi đề cập đến liên kết kinh tế vùng ông
đã sử dụng khái niệm liên kết ngược (backward linkages, upstream linkages) và liên kết
xuôi (forward linkages, downstream linkages) để nghiên cứu các mối quan hệ ngành và
liên ngành. Ông cho rằng các hiệu ứng liên kết ngược (backward linkage effects) nảy sinh
143John Friedmann (sinh 1926): Giáo sư Khoa Community and Regional Planning at University of British
Columbia, Vancuver, Canada.
144 Albert Otto Hirschman (1915 – người Đức) là GS.TS về kinh tế học phát triển tại nhiều trường nổi
tiếng trên thế giới như Yale University, Harvard University v.vHiện ông đang làm việc tại Professor of
Social Science at the Institute for Advanced Studies in Princeton.
422
từ nhu cầu cung ứng đầu vào của một ngành nào đó mới được thiết lập; còn hiệu ứng liên
kết xuôi phát sinh từ việc sử dụng đầu ra của ngành đó như là đầu vào của các ngành khác
đi theo. Nói cách khác bất kỳ một ngành nào mới được thiết lập cũng kéo theo các hoạt
động sản xuất khác nhằm cung cấp đầu vào cho nó; và mọi ngành, trừ các ngành sản xuất
hàng hóa cuối cùng, đều kéo theo các hoạt động khác sử dụng đầu ra của nó như đầu vào
của mình. Hiệu ứng liên kết được xem như các xung lực tạo ra các khoản đầu tư mới
thông qua sự vận động của các mối quan hệ đầu vào - đầu ra. Đây chính là điểm mấu chốt
trong lý thuyết phát triển kinh tế của Hirschman khi ông khuyến nghị cần tập trung đầu
tư vào những ngành có các mối liên kết mạnh, lan tỏa phát triển mạnh để thông qua sức
lan tỏa của chúng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (tăng trưởng không cân đối). Ngoài kiểu
liên kết trong sản xuất nêu trên, Hirschman cũng đề cập đến liên kết tiêu dùng, nhưng cho
rằng không như liên kết trong sản xuất liên kết tiêu dùng có thể mang lại hiệu ứng tiêu
cực ví dụ như sự suy tàn của các nghề thủ công khi thu nhập tăng lên, do có sự chuyển
hướng trong tiêu dùng (Hirschman, 1977).
Xét về thực chất, để phân biệt loại liên kết theo cách tiếp cận của Hirschman thì
liên kết ngược là loại quan hệ được tạo ra khi các doanh nghiệp/hộ gia đình có nhu cầu
được cung cấp đầu vào như nguyên vật liệu, sản phẩm trung gian và dịch vụ từ các doanh
nghiệp/hộ gia đình khác, hay mối quan hệ cầu đầu vào của sản xuất. Liên kết xuôi được tạo
ra khi các doanh nghiệp/hộ gia đình bán sản phẩm và dịch vụ cho các doanh nghiệp/hộ gia
đình khác, hay quan hệ cung đầu ra của sản xuất. Các liên kết xuôi và ngược luôn hòa
quyện, gắn bó chặt chẽ và thực chất là hai mặt của quá trình sản xuất. Để xem xét đâu là
liên kết ngược và đâu là liên kết xuôi thì phải xuất phát từ một chủ thể cụ thể (hộ gia đình,
doanh nghiệp, ngành) vì bất kỳ một chủ thể nào cũng luôn trong mối quan hệ song trùng
giữa hai loại liên kết.
Theo quan điểm của chúng tôi, các luận điểm của Hishmann là đúng, khi ông đề cập
đến liên kết ngược và liên kết xuôi đã có những hiệu ứng lan tỏa của nó trong liên kết đơn
vùng. Ông không phân tích các hiệu ứng khác của các nhân tố chính sách, môi trường chính
sách như GS. Kristiansen. Trong các tác phẩm sau của Hishmann, ông đã phân tích các liên
kết đó trong các hiệu ứng chính sách và hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm nghiên cứu
liên kết ngược và liên kết xuôi của ông ít nhiều cũng đã dựa trên nguyên lý mô hình cân đối
liên ngành mà Wassily Leontief đã đưa ra trong khi nghiên cứu cấu trúc nền kinh tế Mỹ.
Trong nghiên cứu liên kết ngược, liên kết xuôi và toàn diện hơn là nghiên cứu đầu
ra - đầu vào, Ronal E. Miller145 trong cuốn "Các phương pháp phân tích vùng và liên
145 Ronal. E. Miller : GS.TS, Department of Regional Science (Khoa khao học vùng) Đại học of
Pennsylvania –Mỹ. Hiện ông tham gia Hiệp Hội Khoa học vùng của Mỹ.
423
vùng"146 đã trình bày phương pháp nghiên cứu định lượng về hạch toán vùng, kế toán
vùng và bảng IO cho vùng đơn lẻ và liên vùng. Qua đó ông nêu lên rằng, các quan hệ liên
vùng trong một vùng phải tối ưu hóa giá trị gia tăng cho vùng. Chính vì thế phân bố
không gian vùng với các cluster phải dựa trên cơ sở chi phí giao thông và chi phí sản xuất
hợp lý nhất. Ông cùng với Cappelo (1988)147 , Isard Walter (1989)148 là các học giả khoa
học vùng có cùng quan điểm về xây dựng nguyên tắc phân bố lãnh thổ công nghiệp,
thương mại để đạt tối ưu hóa giá trị gia tăng cho vùng.
Nguyên tắc phân bố vùng và liên kết vùng
Khi xác định các yếu tố quyết định đến phân bố lãnh thổ của các ngành công
nghiệp hay chuỗi ngành hàng, người ta dựa vào nhiều yếu tố tác động khác nhau trong đó
cần xem xét đến khả năng tiếp cận và các chi phí các loại đầu vào như nguyên liệu thô,
vùng nguyên liệu, những dịch vụ khác nhau và các loại vốn, năng lượng v.v...). Tiếp đến
phải tính đến việc tiếp cận và chi phí phân phối đến thị trường tiêu thụ sản phẩm. Những
yếu tố nêu trên ít nhiều đã có sẵn hoặc có điều kiện để hình thành. Các nghiên cứu của các
nhà học giả vùng về liên kết vùng đã nêu lên các nguyên tắc liên kết vùng cơ bản là:
- Nguyên tắc thứ nhất: Phân bố lãnh thổ các ngành và phân bố vùng phải dựa trên
các lợi thế so sánh mà có thể làm cho tổng chi phí sản xuất và phân phối sản phẩm đến thị
trường thấp nhất. Các yếu tố tài nguyên có sẵn, hệ thống hạ tầng tốt v.v... sẽ tạo điều kiện
cho ngành công nghiệp được lựa chọn có chi phí so sánh thấp. Chi phí so sánh thấp cũng
là yếu tố để lựa chọn phân bố vùng công nghiệp. Trong công nghiệp chế biến việc gắn
phân bố công nghiệp với vùng nông nghiệp làm đầu vào cho công nghiệp sẽ làm giảm chi
phí so sánh và tăng giá trị gia tăng cho ngành nông nghiệp.
Dựa trên lợi thế so sánh tĩnh và động để phân công các địa phương trong một vùng
và giữa các vùng trong một quốc gia nhằn tăng hiệu quả đầu tư, tránh làm vụn nền kinh
tế, tạo lợi thế quy mô và tính khác biệt hàng hóa, từ đó tạo ra các liên kết phát triển trong
chuỗi ngành hàng có sức cạnh tranh vùng.
- Nguyên tắc thứ hai là sự song hành sử dụng nguyên liệu cho nhiều nơi sẽ làm
giảm hiệu suất sử dụng nguồn lợi và làm mất đi các lực liên kết vùng. Do vậy, nguyên tắc
tối ưu hóa sử dụng nguồn lợi được nêu lên như là chỉ tiêu quan trọng cần được lưu ý khi
phân bố lãnh thổ phát triển.
146 Bản dịch của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, 2008.
147 Roberta Capello: Giáo sư của khoa học Kinh tế vùng của Politecnico of Milan là Chủ tịch Hội Khoa
học vùng Quốc tế.
148 Ronal. E. Miller : GS.TS, Department of Regional Science (Khoa khao học vùng) Đại học of
Pennsylvania –Mỹ. Hiện ông tham gia Hiệp Hội Khoa học vùng của Mỹ.
424
- Nguyên tắc thứ ba là hiệu quả quy mô. Các chi phí trên một đơn vị sản phẩm sẽ
giảm khi sản lượng gia tăng. Việc lựa chọn quy mô hợp lý phải dựa trên sự phân tích chi
tiết cầu thị trường trong và ngoài nước, phân tích các mối liên kết giữa các nhà máy cùng
loại sản phẩm.
Tính đa dạng về mẫu mã, chất lượng sản phẩm v.v để có thể đa dạng hóa cấp độ
thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước do mức thu nhập khác nhau của những người tiêu
dùng quyết định. Các nhà máy cùng loại sản phẩm có thể liên kết với nhau trong một
không gian công nghiệp được lựa chọn theo sự phân công của vùng. Trên cơ sở đó có thể
sản xuất các loại sản phẩm khác nhau từ một loại nguyên liệu đầu vào để mở rộng quy mô
thị trường và đa dạng hóa thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Để đo độ tập trung công nghiệp của các lãnh thổ công nghiệp, nông nghiệp cũng
như dịch vụ được bố trí trên một lãnh thổ nhất định theo các nguyên tắc nêu trên, người ta
sử dụng các chỉ số sau đây:
Hệ số tập trung (the coefficient of localization), tỷ số phân bố (the location
qoutient) là hai chỉ số có thể dễ thu thập và tính toán trong điều kiện số liệu về vùng có
thể nói là "còn lởm khởm" ở Việt Nam. Hai tỷ số này cho biết quy mô tập trung công
nghiệp và phân bố công nghiệp trên một địa bàn không gian lãnh thổ của vùng trong quy
hoạch phát triển và đánh giá phát triển vùng.
Những nguyên tắc này cũng như là các nguyên tắc thiết lập các liên kết phát triển
vùng trong điều kiện nền kinh tế hội nhập, sẽ nâng cao tính cạnh tranh vùng (Capello, 2007).
Các điều kiện để thực thi liên kết vùng bền vững
Các nhà nghiên cứu vùng và liên kết vùng trên thế giới và khu vực không ngừng
bổ sung vào các cơ sở thực tiễn và lý luận cho việc phát triển vùng và liên kết vùng bền
vững. Capello, Richard Wave, Isard Walter v.v... đã tổng kết các cơ sở quan trọng tạo lập
liên kết nội vùng và liên vùng như sau:
i. Các lợi thế so sánh vùng có vai trò quan trọng trong việc hình thành hệ thống phân
công lao động và chuyên môn hóa; và do đó hình thành mối liên kết nội vùng và
liên vùng.
ii. Lợi thế quy mô nhờ chuyên môn hóa. Lợi thế nhờ quy mô tác động lan tỏa đến các
vùng khác nhờ sử dụng các nguyên liệu đầu vào và kiến thức, lao động có kỹ năng
v.v... Với quy mô thị trường và chi phí giao thông giảm sẽ hình thành nên các cụm
trung tâm công nghiệp với các cụm ngành có liên kết chuỗi với nhau, hay là hình
thành các vùng chuyên canh nông nghiệp gắn liền với nó là công nghiệp chế biến
và cơ khí, dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp của vùng chuyên canh đó.
425
iii. Sự đồng thuận về thể chế và các nhóm xã hội chia sẽ lợi ích chung trong đó có lợi
ích phát triển riêng của địa phương. Sự đồng thuận giữa quản lý vĩ mô và các chủ
thể kinh tế vi mô khác như doanh nghiệp, hộ gia đình, đồng thuận giữa nội vùng và
liên vùng, trong đó có liên vùng quốc tế.
iv. Sự đồng bộ về cơ chế chính sách, khung khổ thể và quản trị vùng trên các khía cạnh:
(i) đảm b