Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 186
LIKEN PHẲNG NIÊM MẠC MIỆNG: 
LÂM SÀNG, CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ 
Trần Ngọc Liên*, Nguyễn Thị Hồng* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Liken phẳng niêm mạc miệng là một bệnh viêm mạn tính không rõ nguyên nhân. Mặc dù bệnh 
tương đối phổ biến ở nước ta nhưng ít được nghiên cứu. 
Mục tiêu: Khảo sát một số đặc điểm dịch tễ lâm sàng của liken phẳng niêm mạc miệng và bước đầu xây 
dựng cách thức chẩn đoán và xử trí bệnh. 
Đối tượng và phương pháp: 20 bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng là liken phẳng niêm mạc miệng điều 
trị tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM từ 6/2011 đến 10/2012, và theo dõi trong 6 tháng. Các 
bước chẩn đoán và xử trí gồm: hỏi bệnh sử, khám lâm sàng, cấy nấm, chải tế bào, đánh giá yếu tố nguy cơ và khả 
năng hóa ác, giải thích cho bệnh nhân và xử trí, điều trị corticoid, và tái khám theo dõi bệnh. 
Kết quả: Liken miệng thường xảy ra ở nữ (70%) tuổi trung niên (55%), thường ở hai bên niêm mạc má 
(47%). Dạng chợt phổ biến nhất (55%). Tỉ lệ cấy nấm dương tính là 35%, trong đó 25% nhiễm Candida albicans. 
Tế bào học cho thấy có các tế bào viêm. Đánh giá 3 tuần sau điều trị cho kết quả có 3 ca khỏi bệnh và 16 ca thuyên 
giảm. Sau 6 tuần có 4 ca khỏi bệnh. Tuy nhiên sau 6 tháng có 2 ca tái phát. 
Kết luận: Việc chẩn đoán và điều trị liken nên tiến hành sớm, cần giải thích và trấn an bệnh nhân, loại bỏ 
yếu tố kích thích, vệ sinh răng miệng sạch, theo dõi lâu dài. Thuốc điều trị chủ yếu là corticoid tại chỗ. Corticoid 
toàn thân ngắn ngày dùng cho trường hợp nặng hoặc tái phát. Tuy nhiên, corticoid không hiệu quả cho tất cả 
bệnh nhân và khó ngăn ngừa tái phát hoàn toàn. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu nguyên nhân bệnh sinh để điều 
trị hiệu quả. 
Từ khoá: Liken phẳng niêm mạc miệng, đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán, xử trí. 
ABSTRACT 
ORAL LICHEN PLANUS: CLINICAL FEATURES, DIAGNOSIS AND MANAGEMENT 
Tran Ngoc Lien, Nguyen Thi Hong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 186 - 192 
Background: Oral lichen planus (OLP) is a chronic inflammatory disease of uncertain etiology. Although 
OLP is a relatively common disorder, there are very few published studies in our country. 
Objectives: To investigate the clinical features of OLP, and to initially establish the process of diagnosis and 
management of OLP patients. 
Subjects and methods: 20 patients with clinical diagnosis of OLP were examined and treated at the Faculty 
of Odonto-Stomatology, HCM City University of Medicine and Pharmacy from June 2011 to October 2012, and 
followed up in 6 months. The approach to assessment, diagnosis and treatment for all OLP patients in this study 
included: History, examination and diagnosis, fungus culture, brush cytology, assessment of 
causative/exacerbating factors, associated diseases and oral cancer risk, patient education and management, 
corticosteroid treatment, and long-term review. 
Results: OLP most commonly occurred in women (70%) at the middle age (55%), usually in a bilaterally 
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM 
Tác giả liên lạc: BS. Trần Ngọc Liên ĐT: 0918347375 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 187
symmetrical pattern, involving buccal mucosa (47%). The erosive form was the predominant type in 55% of 
patients at initial presentation. Precipitating factors were systemic illness (hypertension, heart disease, diabetes, 
hepatitis C, asthma, arthritis) (9 cases), dental procedures (4 cases), stress (1 case), dental trauma (1 case), cheek 
biting (1 case). Fungal infection was detected in 35%, among which 25% infected with Candida albicans. Brush 
cytology showed inflammatory cells. Three weeks after treatment, 3 cases completely resolved and 16 cases partly 
decreased. After 6 weeks, 4 cases completely responded. However, after 6 months, 2 cases were recurrent. 
Conclusion: OLP should be identified precisely and treated properly at the earliest. Patient education, 
avoidance of potential local precipitating factors and strict oral hygiene and long-term follow up are essential. 
Topical corticosteroids are the treatment of choice. Systemic steroids should be limited to the short-term cure of 
severe refractory OLP. However, corticosteroids are inadequate in treating all patients and preventing 
recurrences. Further clarity on the pathogenesis is needed to modify therapeutic interventions. 
Key words: Oral lichen planus, clinical features, diagnosis, management. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Liken phẳng là một bệnh tự miễn gây viêm 
mạn tính ở da và niêm mạc không rõ nguyên 
nhân(5,7). Liken phẳng niêm mạc miệng xuất hiện 
dưới nhiều dạng khác nhau, tổn thương có thể 
đau, khó chịu và thường làm bệnh nhân lo lắng. 
Liken miệng cũng dễ bị bội nhiễm nấm Candida. 
Có nhiều phương pháp điều trị liken khác nhau, 
chủ yếu là sử dụng thuốc kháng viêm corticoid. 
Điều trị liken là sự thách thức đối với cả bác sĩ 
lẫn bệnh nhân, do bệnh thường diễn tiến dai 
dẳng và dễ tái phát, nhất là dạng chợt hay loét. 
Hơn nữa, liken được xem là một tổn thương tiền 
ung thư do có nguy cơ hóa ác (1,6-4,1%)(2,7). 
Mặc dù đây là bệnh thường gặp nhất trong 
các bệnh ngoài da có biểu hiện ở miệng nhưng 
một số bác sĩ Răng Hàm Mặt (RHM) đã không 
chẩn đoán được. Tại Phòng khám Khoa RHM, 
Đại học Y Dược Tp.HCM có những bệnh nhân 
đến khám hay từ nơi khác chuyển đến với 
chẩn đoán và/hoặc điều trị chưa phù hợp. Do 
đó, thực hiện nghiên cứu này chúng tôi mong 
muốn ghi nhận những đặc điểm dịch tễ của 
liken miệng (về tuổi, giới tính, nghề nghiệp, 
yếu tố thuận lợi), xác định các đặc điểm lâm 
sàng của liken về tổn thương ở miệng (số 
lượng, vị trí, dạng lâm sàng, triệu chứng), mô 
tả đặc điểm tế bào học, và bước đầu xây dựng 
phác đồ chẩn đoán và xử trí liken miệng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Mẫu nghiên cứu 
Gồm 20 bệnh nhân liken phẳng niêm mạc 
miệng tại phòng khám Khoa Răng Hàm Mặt, 
Đại học Y Dược Tp.HCM từ tháng 6/2011 đến 
tháng 10/2012. 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu báo cáo loạt ca. 
Các bước tiền hành 
Hỏi bệnh sử 
Cảm giác đau (theo 3 mức độ: không đau, 
đau ít, đau nhiều), ghi nhận bệnh toàn thân kèm 
theo. 
Khám lâm sàng 
Xác định vị trí, số lượng và dạng tổn thương, 
kích thích tại chỗ. 
Xét nghiệm cận lâm sàng 
Cấy nấm, chải tế bào niêm mạc miệng, các 
xét nghiệm bổ túc nếu cần (sinh thiết để có 
chẩn đoán giải phẫu bệnh, xét nghiệm miễn 
dịch để loại trừ các bệnh tự miễn khác như 
lupus đỏ, pemphigus). 
Xử trí 
Theo Sơ đồ 1 (chủ yếu dựa theo qui trình xử 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 188
trí của Lavanya năm 2011(7)): 
- Loại bỏ kích thích tại chỗ: lấy vôi răng; kiểm 
tra miếng trám, phục hình và thay thế bằng vật 
liệu khác khi cần thiết; giải quyết các răng mọc 
lệch, răng bén nhọn gây chấn thương, cọ xát. 
- Kiểm soát yếu tố toàn thân: bệnh toàn thân, 
tình trạng căng thẳng, phối hợp điều trị chuyên 
khoa nếu cần. 
- Nếu tổn thương dạng lưới, không có triệu 
chứng: giải thích và trấn an bệnh nhân, hẹn tái 
khám để theo dõi. 
- Điều trị thuốc gồm thuốc kháng nấm (khi 
cấy nấm dương tính): ngậm dung dịch 
Fungizone (Amphotericine B) 3 lần mỗi ngày, 
trong khoảng 2 tuần; Corticoid tại chỗ: 
Fluocinolone acetonide oitment 0,025% thoa 3 
lần/ngày. Nếu liken ở nướu răng, nên làm 
máng phủ răng và nướu để mang thuốc lâu 
hơn; Corticoid toàn thân nếu có dạng chợt 
loét, đau nhiều hoặc không đáp ứng điều trị 
corticoid tại chỗ: Solupred 20mg dạng viên 
nén uống, 1mg/kg/ngày. Nếu không đáp ứng 
điều trị hoặc chống chỉ định corticoid sẽ 
chuyển bệnh viện Da liễu. 
Tái khám 
Sau mỗi tuần, giảm liều và ngưng corticoid 
toàn thân khi triệu chứng hết hoặc giảm rõ. 
Đánh giá kết quả điều trị sau 3 tuần, 6 tuần, 6 
tháng 
Khỏi hẳn: hết đau, hết viêm, niêm mạc trơn 
láng, hồng. 
Giảm một phần: hết đau hay từ đau nhiều 
chuyển sang đau ít; niêm mạc chuyển từ dạng 
teo chợt sang dạng lưới, sần 
Không giảm: vẫn đau, tổn thương không bớt. 
Chẩn ñoán Liken
Không chợt
Không triệu chứng
Chợt / Có triệu chứng
Theo dõi
Không
chống chỉ ñịnh
corticoid toàn thân
Theo dõiTacrolimus hoặc
pimecrolimus
ðiều trị loạn sản
/ung thư
Corticoid tại chỗ
± kháng nấm
Loạn sản/ 
ác tính
Chống chỉ ñịnh
corticoid toàn thân
Retinoid/PUVA
Không ñáp ứngðáp ứng
hoàn toàn
Theo dõi
Corticoid toàn thân
± corticoid tại chỗ
± kháng nấm
Không
ñáp ứng
ðáp ứng
hoàn toàn
Tr.chứng nặng Tr.chứng nhẹ
Không
ñáp ứng
Sơ đồ 1: Qui trình xử trí liken phẳng niêm mạc miệng. 
KẾT QUẢ 
Trong 20 trường hợp liken miệng, có 14 nữ 
(70%) và 6 nam (30%)(Bảng 1). Độ tuổi thường 
gặp nhất ở nam là 40-50 tuổi, và ở nữ từ 50-60 
tuổi. Bệnh nhân nhỏ nhất 39 tuổi và lớn nhất 
75 tuổi. 
Bảng 1: Tuổi và giới tính của bệnh nhân liken miệng. 
Tuổi Nam 
Số ca (%) 
Nữ 
Số ca (%) 
Tổng 
Số ca (%) 
<40 
40-49 
50-59 
≥60 
0 (0) 
3 (15) 
1 (5) 
2 (10) 
1 (5) 
4 (20) 
7 (35) 
2 (10) 
1 (5) 
7 (35) 
8 (40) 
4 (20) 
Tổng 6 (30) 14 (70) 20 (100) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 189
30% bệnh nhân đã nghỉ hưu, các bệnh nhân 
nữ hầu hết là buôn bán hay nội trợ. Các nghề 
khác như luật sư, kỹ sư, công an, nông dân ít gặp 
hơn (Bảng 2). 
Bảng 2: Nghề nghiệp của bệnh nhân liken miệng. 
Nghề Nam 
Số ca (%) 
Nữ 
Số ca (%) 
Tổng 
Số ca (%) 
Buôn bán 
Nội trợ 
Về hưu 
Nghề khác 
0 (0) 
0 (0) 
2 (10) 
4 (20) 
4 (20) 
4 (20) 
4 (20) 
2 (10) 
4 (20) 
4 (20) 
6 (30) 
6 (30) 
Tổng 6 (30) 14(70) 20 (100) 
Trong số 14 bệnh nhân nữ, có 8 người (chiếm 
40%) đang bị căng thẳng và bệnh toàn thân như 
cao huyết áp, tim mạch, đái tháo đường, viêm 
gan siêu vi C, suyển, viêm khớp. Trong 6 bệnh 
nhân nam, chỉ có 1 người bị cao huyết áp. 
Bảng 3: Tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân liken 
miệng. 
Bệnh sử Nam 
Số ca (%) 
Nữ 
Số ca (%) 
Tổng 
Số ca (%) 
Cao huyết áp 
Tim mạch 
ðái tháo ñường 
Viêm gan siêu vi C 
Suyển 
Viêm khớp 
Căng thẳng 
1 (5) 
0 (0) 
0 (0) 
0 (0) 
0 (0) 
0 (0) 
0 (0) 
1 (5) 
1 (5) 
1 (5) 
1 (5) 
2 (10) 
1 (5) 
1 (5) 
2 (10) 
1 (5) 
1 (5) 
1 (5) 
2 (10) 
1 (5) 
1 (5) 
Tổng 1 (5) 8 (40) 9 (45) 
Ghi nhận 8 trường hợp có kích thích tại chỗ, 
chiếm 40%; trong đó 3 trường hợp có miếng 
trám amalgam, 2 trường hợp phục hình răng, 2 
trường hợp chân răng bén nhọn và 1 trường hợp 
cắn má (Bảng 4). 
Bảng 4: Các kích thích tại chỗ tổn thương liken 
miệng. 
Nghề N.mạc má 
Số ca (%) 
ðáy hành 
lang 
Số ca (%) 
Tổng 
Số ca (%) 
Trám Amalgam 
Phục hình răng 
Chân răng bén 
Cắn má 
3 (15) 
1 (5) 
1 (5) 
1 (5) 
0 (0) 
1 (20) 
1 (20) 
0 (0) 
3 (15) 
2 (10) 
2 (10) 
1 (5) 
Tổng 6 (30) 2 (10) 8 (40) 
Liken miệng thường xảy ra ở niêm mạc má 
47% và thường có cả hai bên, kế đến là nướu 
răng 17%, đáy hành lang 14%, lưỡi 11%, môi 8% 
và khẩu cái 3%. Dạng lâm sàng phổ biến nhất là 
dạng chợt, chiếm 55% (Bảng 5). 
Bảng 5: Vị trí và dạng tổn thương liken miệng 
Vị trí Dạng tổn thương (số ca, %) Tổng 
Lưới Mảng Chợt Teo 
N.mạc má 4 (11) 0 (0) 11 (30) 2 (5) 17 (47) 
Nướu 1 (3) 0 (0) 4 (11) 1 (3) 6 (17) 
Hành lang 2 (6) 0 (0) 3 (8) 0 (0) 5 (14) 
Lưỡi 1 (3) 2 (6) 1 (3) 0 (0) 4 (11) 
Môi 3 (8) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 3 (8) 
Khẩu cái 0 (0) 0 (0) 1 (3) 0 (0) 1 (3) 
Tổng 11(31) 2 (6) 20 (55) 3 (8) 36 (100) 
Xét nghiệm cấy nấm cho kết quả dương tính 
trong 7 trường hợp, chiếm tỉ lệ 35%, trong đó có 
5 trường hợp(25%) là Candida albicans. 
Tế bào học cho thấy các tế bào biểu mô có 
hình dạng bình thường, phân bố rời rạc, bào 
tương bắt màu cam hay hồng nhạt, một số tế bào 
có nhân bị vỡ thành các hạt nhỏ rải rác trong bào 
tương, có bạch cầu đa nhân hình múi và tương 
bào. 
Điều trị theo một phác đồ thống nhất nêu 
trên. Sau khi loại bỏ kích thích tại chỗ, không có 
trường hợp nào khỏi hoàn toàn, chỉ có 3 trường 
hợp giảm đau, giảm viêm. Vào thời điểm sau ba 
tuần điều trị, ghi nhận có 3 trường hợp khỏi hẳn 
và 16 trường hợp giảm một phần. Sau sáu tuần 
điều trị có 4 trường hợp khỏi hẳn (Bảng 6). 
Không có trường hợp nào chống chỉ định 
corticoid, tuy nhiên sau 3 tuần và sau 6 tuần điều 
trị chỉ còn 1 trường hợp không giảm và được 
chuyển bệnh viện Da liễu. Theo dõi sau 6 tháng 
có 2 trường hợp tái phát. 
Bảng 6: Kết quả điều trị 20 bệnh nhân liken. 
Lần ñánh giá Khỏi hẳn 
Số ca (%) 
Giảm một 
phần Số 
ca (%) 
Không 
giảm Số 
ca (%) 
Sau khi loại kích thích 0 (0) 3 (15) 17 (85) 
Sau ba tuần ñiều trị 3 (15) 16 (80) 1 (5) 
Sau sáu tuần ñiều trị 4 (20) 15 (75) 1 (5) 
BÀN LUẬN 
Về đặc điểm dịch tễ lâm sàng 
Liken phẳng niêm mạc miệng là một bệnh tự 
miễn, chiếm tỉ lệ 1-2% trong dân số(9). Bệnh 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 190
thường gặp ở phụ nữ tuổi trung niên. Kết quả 
nghiên cứu 20 trường hợp liken miệng cũng cho 
thấy nữ mắc bệnh nhiều hơn nam giới, chiếm tỉ 
lệ 70%. Ở nữ giới, bệnh tập trung ở nhóm tuổi từ 
40-60 tuổi (55%), chỉ có 5% dưới 40 tuổi và 10% 
trên 60 tuổi. Độ tuổi thường gặp nhất ở nam 
cũng là tuổi trung niên (40-49 tuổi) nhưng sớm 
hơn nữ giới (50-59 tuổi). Nhìn chung cả hai giới, 
75% liken xảy ra ở tuổi trung niên (40-60 tuổi), 
chỉ có 1 trường hợp ở người nữ trẻ dưới 40 tuổi. 
Các nghiên cứu đều công nhận sự chênh 
lệnh rõ giữa nam và nữ trong số bệnh nhân liken 
miệng(1,2,14), mặc dù tỉ lệ nam:nữ có thể khác nhau 
tùy dân số nghiên cứu. Tỉ lệ nam:nữ trong 
nghiên cứu này là 1:2,3; trong nghiên cứu của 
Xue và cs ở Trung Quốc (2005)(14) là 1:1,19, trong 
nghiên cứu của Eisen và cs ở Mỹ (2002)(5) là 1:3. 
Nguyên nhân của liken phẳng còn chưa rõ 
và khá phức tạp, tuy nhiên đến nay đã tìm thấy 
một số yếu tố thuận lợi có thể làm khởi phát 
những đợt tiến triển nhanh của bệnh như bệnh 
toàn thân, điều trị nha khoa, dị ứng, căng thẳng, 
lo âu, suy sụp tinh thần, vệ sinh răng miệng 
kém(3,5,9). Nghiên cứu này cũng ghi nhận 8 bệnh 
nhân (40%) có những bệnh lý toàn thân đi kèm 
như cao huyết áp, bệnh tim mạch, đái tháo 
đường, viêm gan siêu vi C, suyển, viêm khớp; và 
họ hầu như phải dùng thuốc lâu dài. Nghiên cứu 
chỉ ghi nhận được 1 trường hợp có căng thẳng 
thường xuyên trong cuốc sống, sự căng thẳng 
này có thể từ cuộc sống hằng ngày nhưng cũng 
có thể là sự lo âu quá mức về bệnh. 
Liken miệng xảy ra ở mọi vị trí trong niêm 
mạc miệng với xuất độ khác nhau, tuy nhiên tỉ lệ 
xuất hiện cao ở niêm mạc má hơn các vị trí khác 
và thường đối xứng ở cả hai bên, nhất là phía 
sau của niêm mạc má(6). Mặc dù khảo sát trên số 
lượng ít nhưng kết quả ghi nhận được cũng 
tương tự với các nghiên cứu khác(1,13,14). Bên cạnh 
47% biểu hiện ở niêm mạc má, chúng tôi cũng 
ghi nhận các trường hợp biểu hiện ở nướu răng 
17%, niêm mạc hành lang 14%, lưỡi 11%, môi 8% 
và khẩu cái 3%. Chúng tôi không ghi nhận được 
trường hợp nào có biểu hiện ngoài da đi kèm 
trong khi nhiều tác giả ghi nhận 15- 40% trường 
hợp có tổn thương ngoài da(1,3,8,13). Sự khác biệt 
này có thể do bệnh nhân có bệnh lý ngoài da 
thường khám ở chuyên khoa da liễu hơn là răng 
hàm mặt, trong khi chúng tôi chỉ khảo sát ở 
Phòng khám của Khoa Răng Hàm Mặt. 
Liken phẳng có 6 dạng lâm sàng: lưới, chợt, 
teo, mảng, sần và bóng nước(3), trong đó dạng 
lưới phổ biến nhất, với những đường mảnh 
trắng đan nhau (được gọi là sọc Wickham). Tuy 
nhiên, chúng tôi ghi nhận phổ biến nhất là dạng 
chợt (55%). Ở dạng này, bệnh nhân thường đau 
nhiều, trong khi dạng lưới và dạng mảng không 
hoặc rất ít triệu chứng nên ít khi bệnh nhân biết 
và đi khám. Đau là lý do chính khiến bệnh nhân 
phải đi khám và phát hiện bệnh, do vậy thường 
gặp dạng chợt ở nhóm bệnh nhân đến khám. 
Dạng này xảy ra chủ yếu ở niêm mạc má, nướu 
răng và đáy hành lang, dạng mảng gặp ở lưng 
lưỡi; đa số bệnh nhân đều có tổn thương ở nhiều 
vị trí chứ không chỉ khu trú ở một vị trí. 
Nhiễm nấm thường gặp trên các tổn thương 
liken. Tuy nhiên, có tác giả cho rằng sự hiện diện 
của C. albicans không hỗ trợ cho chẩn đoán cũng 
như điều trị do C. albicans hiện diện trong hơn 
70% dân số(8). Tuy tỷ lệ nhiễm nấm trong nghiên 
cứu này không cao (35%) như những nghiên cứu 
khác nhưng các trường hợp có xét nghiệm nấm 
dương tính thì đáp ứng tốt với điều trị có phối 
hợp kháng nấm. 
Về mặt chẩn đoán 
Chẩn đoán liken miệng nên dựa trên lâm 
sàng và giải phẫu bệnh. Tuy nhiên, trong một số 
trường hợp điển hình, có thể chỉ cần chẩn đoán 
dựa trên dạng lâm sàng và vị trí đặc trưng của 
tổn thương(3,6). 
Liken hiện diện kéo dài, tiến triển từng đợt 
biểu hiện đỏ, chợt, loét và đau. Những đợt tiến 
triển rầm rộ này thường liên quan với những lúc 
căng thẳng lo âu, chấn thương cơ học do răng 
hay phục hình răng, những kích thích mạn tính 
vùng miệng từ mảng bám răng hay vôi răng 
(hiện tượng Koebner)(3). Nghiên cứu này ghi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 191
nhận 5 bệnh nhân (25%) có vật liệu trám răng 
hay phục hình gần vùng tổn thương, và 3 bệnh 
nhân (15%) thường bị chấn thương niêm mạc do 
thường xuyên cắn má hay do cạnh răng sắc bén. 
Những trường hợp này cần phân biệt với tổn 
thương phản ứng dạng liken, là tổn thương gây 
ra do phản ứng với thuốc hay vật liệu phục hình 
răng, thường xảy ra chỉ ở một bên niêm mạc nơi 
có nguyên nhân kích thích và bệnh sẽ lui nhanh 
khi loại bỏ được kích thích(3,8,9,13). 
Liken miệng thường được chẩn đoán xác 
định bằng mô bệnh học để phân biệt với các 
dạng bệnh lý có sang thương trắng hay loét mạn 
tính khác như phản ứng sừng hóa, nhiễm nấm 
candida tăng sản mạn tính, loạn sản biểu mô, 
ung thư(4,8,10). Trong nghiên cứu này, việc chẩn 
đoán dựa trên đặc điểm lâm sàng, kết hợp tế bào 
học và điều trị, xét nghiệm mô bệnh học chỉ 
được thực hiện trong trường hợp không đáp 
ứng với điều trị. 
Xét nghiệm chải tế bào niêm mạc miệng có 
nhiều ưu điểm là đơn giản, thực hiện được ở 
phòng khám, không đau và hầu như không xâm 
lấn, có thể thực hiện ở nhiều tổn thương cùng 
lúc. Do vậy, chúng tôi áp dụng trong chẩn đoán 
liken để xác định viêm chứng, và nhất là để kiểm 
tra phát hiện sớm nghịch sản và sự hóa ác của 
tổn thương liken, thuận lợi trong việc theo dõi. 
Kết quả cho thấy các tế bào biểu mô có hình 
dạng bình thường, phân bố rời rạc, bào tương 
bắt màu cam hay hồng nhạt, một số tế bào có 
nhân bị vỡ thành các hạt nhỏ rải rác trong bào 
tương, có bạch cầu đa nhân hình múi và tương 
bào. Tuy hình ảnh tế bào học không đặc trưng 
nhưng cũng cho thấy có tình trạng viêm ở 
những bệnh nhân này, và không có ca nào bị 
loạn sản hay ác tính. 
Về mặt điều trị 
Có nhiều phương thức và nhiều loại thuốc 
dùng điều trị liken(3,4,7,8,12), nhưng chủ yếu vẫn là 
sử dụng corticoid nhằm giảm viêm. Trong 
nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng corticoid kết 
hợp với dung dịch kháng nấm ngậm trong 
miệng (trường hợp có nhiễm nấm). Những bệnh 
nhân có triệu chứng nhẹ chỉ cần sử dụng 
Fluocinolone dạng mỡ bôi tại chỗ. Một số trường 
hợp có triệu chứng nặng, đau nhiều, chúng tôi 
kết hợp với corticoid đường uống trong thời gian 
3 tuần với liều duy nhất vào buổi sáng. Theo 
Surgeman và cs (2002)(11), việc kết hợp thuốc bôi 
tại chỗ và thuốc uống cho hiệu quả tốt. 
Trong số 20 bệnh nhân được điều trị, có 4 
trường hợp khỏi hẳn. Tuy tỉ lệ này không cao, 
nhưng do tiêu chuẩn đánh giá “khỏi” trong 
nghiên cứu này là hết các triệu chứng và lành 
thương hoàn toàn. Kết quả điều trị cho thấy 
không có trường hợp nào tiến triển nặng hơn lúc 
đầu, phần lớn các trường hợp chỉ chuyển từ 
dạng nặng (chợt/loét/teo) sang dạng lưới. Ngoài 
đặc tính dai dẳng của bệnh, hiệu quả điều trị 
thấp có thể do corticoid thoa tại chỗ không có 
chất oralbase để dễ dính vào niêm mạc nên phát 
huy không đủ tác