Đặt vấn đề: Liken phẳng niêm mạc miệng là một bệnh viêm mạn tính không rõ nguyên nhân. Mặc dù bệnh tương đối phổ biến ở nước ta nhưng ít được nghiên cứu. Mục tiêu: Khảo sát một số đặc điểm dịch tễ lâm sàng của liken phẳng niêm mạc miệng và bước đầu xây dựng cách thức chẩn đoán và xử trí bệnh. Đối tượng và phương pháp: 20 bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng là liken phẳng niêm mạc miệng điều trị tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM từ 6/2011 đến 10/2012, và theo dõi trong 6 tháng. Các bước chẩn đoán và xử trí gồm: hỏi bệnh sử, khám lâm sàng, cấy nấm, chải tế bào, đánh giá yếu tố nguy cơ và khả năng hóa ác, giải thích cho bệnh nhân và xử trí, điều trị corticoid, và tái khám theo dõi bệnh. Kết quả: Liken miệng thường xảy ra ở nữ (70%) tuổi trung niên (55%), thường ở hai bên niêm mạc má (47%). Dạng chợt phổ biến nhất (55%). Tỉ lệ cấy nấm dương tính là 35%, trong đó 25% nhiễm Candida albicans. Tế bào học cho thấy có các tế bào viêm. Đánh giá 3 tuần sau điều trị cho kết quả có 3 ca khỏi bệnh và 16 ca thuyên giảm. Sau 6 tuần có 4 ca khỏi bệnh. Tuy nhiên sau 6 tháng có 2 ca tái phát. Kết luận: Việc chẩn đoán và điều trị liken nên tiến hành sớm, cần giải thích và trấn an bệnh nhân, loại bỏ yếu tố kích thích, vệ sinh răng miệng sạch, theo dõi lâu dài. Thuốc điều trị chủ yếu là corticoid tại chỗ. Corticoid toàn thân ngắn ngày dùng cho trường hợp nặng hoặc tái phát. Tuy nhiên, corticoid không hiệu quả cho tất cả bệnh nhân và khó ngăn ngừa tái phát hoàn toàn. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu nguyên nhân bệnh sinh để điều trị hiệu quả.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liken phẳng niêm mạc miệng: Lâm sàng, chẩn đoán và xử trí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 186
LIKEN PHẲNG NIÊM MẠC MIỆNG:
LÂM SÀNG, CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ
Trần Ngọc Liên*, Nguyễn Thị Hồng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Liken phẳng niêm mạc miệng là một bệnh viêm mạn tính không rõ nguyên nhân. Mặc dù bệnh
tương đối phổ biến ở nước ta nhưng ít được nghiên cứu.
Mục tiêu: Khảo sát một số đặc điểm dịch tễ lâm sàng của liken phẳng niêm mạc miệng và bước đầu xây
dựng cách thức chẩn đoán và xử trí bệnh.
Đối tượng và phương pháp: 20 bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng là liken phẳng niêm mạc miệng điều
trị tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM từ 6/2011 đến 10/2012, và theo dõi trong 6 tháng. Các
bước chẩn đoán và xử trí gồm: hỏi bệnh sử, khám lâm sàng, cấy nấm, chải tế bào, đánh giá yếu tố nguy cơ và khả
năng hóa ác, giải thích cho bệnh nhân và xử trí, điều trị corticoid, và tái khám theo dõi bệnh.
Kết quả: Liken miệng thường xảy ra ở nữ (70%) tuổi trung niên (55%), thường ở hai bên niêm mạc má
(47%). Dạng chợt phổ biến nhất (55%). Tỉ lệ cấy nấm dương tính là 35%, trong đó 25% nhiễm Candida albicans.
Tế bào học cho thấy có các tế bào viêm. Đánh giá 3 tuần sau điều trị cho kết quả có 3 ca khỏi bệnh và 16 ca thuyên
giảm. Sau 6 tuần có 4 ca khỏi bệnh. Tuy nhiên sau 6 tháng có 2 ca tái phát.
Kết luận: Việc chẩn đoán và điều trị liken nên tiến hành sớm, cần giải thích và trấn an bệnh nhân, loại bỏ
yếu tố kích thích, vệ sinh răng miệng sạch, theo dõi lâu dài. Thuốc điều trị chủ yếu là corticoid tại chỗ. Corticoid
toàn thân ngắn ngày dùng cho trường hợp nặng hoặc tái phát. Tuy nhiên, corticoid không hiệu quả cho tất cả
bệnh nhân và khó ngăn ngừa tái phát hoàn toàn. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu nguyên nhân bệnh sinh để điều
trị hiệu quả.
Từ khoá: Liken phẳng niêm mạc miệng, đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán, xử trí.
ABSTRACT
ORAL LICHEN PLANUS: CLINICAL FEATURES, DIAGNOSIS AND MANAGEMENT
Tran Ngoc Lien, Nguyen Thi Hong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 186 - 192
Background: Oral lichen planus (OLP) is a chronic inflammatory disease of uncertain etiology. Although
OLP is a relatively common disorder, there are very few published studies in our country.
Objectives: To investigate the clinical features of OLP, and to initially establish the process of diagnosis and
management of OLP patients.
Subjects and methods: 20 patients with clinical diagnosis of OLP were examined and treated at the Faculty
of Odonto-Stomatology, HCM City University of Medicine and Pharmacy from June 2011 to October 2012, and
followed up in 6 months. The approach to assessment, diagnosis and treatment for all OLP patients in this study
included: History, examination and diagnosis, fungus culture, brush cytology, assessment of
causative/exacerbating factors, associated diseases and oral cancer risk, patient education and management,
corticosteroid treatment, and long-term review.
Results: OLP most commonly occurred in women (70%) at the middle age (55%), usually in a bilaterally
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Trần Ngọc Liên ĐT: 0918347375 Email: petitelien@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 187
symmetrical pattern, involving buccal mucosa (47%). The erosive form was the predominant type in 55% of
patients at initial presentation. Precipitating factors were systemic illness (hypertension, heart disease, diabetes,
hepatitis C, asthma, arthritis) (9 cases), dental procedures (4 cases), stress (1 case), dental trauma (1 case), cheek
biting (1 case). Fungal infection was detected in 35%, among which 25% infected with Candida albicans. Brush
cytology showed inflammatory cells. Three weeks after treatment, 3 cases completely resolved and 16 cases partly
decreased. After 6 weeks, 4 cases completely responded. However, after 6 months, 2 cases were recurrent.
Conclusion: OLP should be identified precisely and treated properly at the earliest. Patient education,
avoidance of potential local precipitating factors and strict oral hygiene and long-term follow up are essential.
Topical corticosteroids are the treatment of choice. Systemic steroids should be limited to the short-term cure of
severe refractory OLP. However, corticosteroids are inadequate in treating all patients and preventing
recurrences. Further clarity on the pathogenesis is needed to modify therapeutic interventions.
Key words: Oral lichen planus, clinical features, diagnosis, management.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Liken phẳng là một bệnh tự miễn gây viêm
mạn tính ở da và niêm mạc không rõ nguyên
nhân(5,7). Liken phẳng niêm mạc miệng xuất hiện
dưới nhiều dạng khác nhau, tổn thương có thể
đau, khó chịu và thường làm bệnh nhân lo lắng.
Liken miệng cũng dễ bị bội nhiễm nấm Candida.
Có nhiều phương pháp điều trị liken khác nhau,
chủ yếu là sử dụng thuốc kháng viêm corticoid.
Điều trị liken là sự thách thức đối với cả bác sĩ
lẫn bệnh nhân, do bệnh thường diễn tiến dai
dẳng và dễ tái phát, nhất là dạng chợt hay loét.
Hơn nữa, liken được xem là một tổn thương tiền
ung thư do có nguy cơ hóa ác (1,6-4,1%)(2,7).
Mặc dù đây là bệnh thường gặp nhất trong
các bệnh ngoài da có biểu hiện ở miệng nhưng
một số bác sĩ Răng Hàm Mặt (RHM) đã không
chẩn đoán được. Tại Phòng khám Khoa RHM,
Đại học Y Dược Tp.HCM có những bệnh nhân
đến khám hay từ nơi khác chuyển đến với
chẩn đoán và/hoặc điều trị chưa phù hợp. Do
đó, thực hiện nghiên cứu này chúng tôi mong
muốn ghi nhận những đặc điểm dịch tễ của
liken miệng (về tuổi, giới tính, nghề nghiệp,
yếu tố thuận lợi), xác định các đặc điểm lâm
sàng của liken về tổn thương ở miệng (số
lượng, vị trí, dạng lâm sàng, triệu chứng), mô
tả đặc điểm tế bào học, và bước đầu xây dựng
phác đồ chẩn đoán và xử trí liken miệng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu
Gồm 20 bệnh nhân liken phẳng niêm mạc
miệng tại phòng khám Khoa Răng Hàm Mặt,
Đại học Y Dược Tp.HCM từ tháng 6/2011 đến
tháng 10/2012.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu báo cáo loạt ca.
Các bước tiền hành
Hỏi bệnh sử
Cảm giác đau (theo 3 mức độ: không đau,
đau ít, đau nhiều), ghi nhận bệnh toàn thân kèm
theo.
Khám lâm sàng
Xác định vị trí, số lượng và dạng tổn thương,
kích thích tại chỗ.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Cấy nấm, chải tế bào niêm mạc miệng, các
xét nghiệm bổ túc nếu cần (sinh thiết để có
chẩn đoán giải phẫu bệnh, xét nghiệm miễn
dịch để loại trừ các bệnh tự miễn khác như
lupus đỏ, pemphigus).
Xử trí
Theo Sơ đồ 1 (chủ yếu dựa theo qui trình xử
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 188
trí của Lavanya năm 2011(7)):
- Loại bỏ kích thích tại chỗ: lấy vôi răng; kiểm
tra miếng trám, phục hình và thay thế bằng vật
liệu khác khi cần thiết; giải quyết các răng mọc
lệch, răng bén nhọn gây chấn thương, cọ xát.
- Kiểm soát yếu tố toàn thân: bệnh toàn thân,
tình trạng căng thẳng, phối hợp điều trị chuyên
khoa nếu cần.
- Nếu tổn thương dạng lưới, không có triệu
chứng: giải thích và trấn an bệnh nhân, hẹn tái
khám để theo dõi.
- Điều trị thuốc gồm thuốc kháng nấm (khi
cấy nấm dương tính): ngậm dung dịch
Fungizone (Amphotericine B) 3 lần mỗi ngày,
trong khoảng 2 tuần; Corticoid tại chỗ:
Fluocinolone acetonide oitment 0,025% thoa 3
lần/ngày. Nếu liken ở nướu răng, nên làm
máng phủ răng và nướu để mang thuốc lâu
hơn; Corticoid toàn thân nếu có dạng chợt
loét, đau nhiều hoặc không đáp ứng điều trị
corticoid tại chỗ: Solupred 20mg dạng viên
nén uống, 1mg/kg/ngày. Nếu không đáp ứng
điều trị hoặc chống chỉ định corticoid sẽ
chuyển bệnh viện Da liễu.
Tái khám
Sau mỗi tuần, giảm liều và ngưng corticoid
toàn thân khi triệu chứng hết hoặc giảm rõ.
Đánh giá kết quả điều trị sau 3 tuần, 6 tuần, 6
tháng
Khỏi hẳn: hết đau, hết viêm, niêm mạc trơn
láng, hồng.
Giảm một phần: hết đau hay từ đau nhiều
chuyển sang đau ít; niêm mạc chuyển từ dạng
teo chợt sang dạng lưới, sần
Không giảm: vẫn đau, tổn thương không bớt.
Chẩn ñoán Liken
Không chợt
Không triệu chứng
Chợt / Có triệu chứng
Theo dõi
Không
chống chỉ ñịnh
corticoid toàn thân
Theo dõiTacrolimus hoặc
pimecrolimus
ðiều trị loạn sản
/ung thư
Corticoid tại chỗ
± kháng nấm
Loạn sản/
ác tính
Chống chỉ ñịnh
corticoid toàn thân
Retinoid/PUVA
Không ñáp ứngðáp ứng
hoàn toàn
Theo dõi
Corticoid toàn thân
± corticoid tại chỗ
± kháng nấm
Không
ñáp ứng
ðáp ứng
hoàn toàn
Tr.chứng nặng Tr.chứng nhẹ
Không
ñáp ứng
Sơ đồ 1: Qui trình xử trí liken phẳng niêm mạc miệng.
KẾT QUẢ
Trong 20 trường hợp liken miệng, có 14 nữ
(70%) và 6 nam (30%)(Bảng 1). Độ tuổi thường
gặp nhất ở nam là 40-50 tuổi, và ở nữ từ 50-60
tuổi. Bệnh nhân nhỏ nhất 39 tuổi và lớn nhất
75 tuổi.
Bảng 1: Tuổi và giới tính của bệnh nhân liken miệng.
Tuổi Nam
Số ca (%)
Nữ
Số ca (%)
Tổng
Số ca (%)
<40
40-49
50-59
≥60
0 (0)
3 (15)
1 (5)
2 (10)
1 (5)
4 (20)
7 (35)
2 (10)
1 (5)
7 (35)
8 (40)
4 (20)
Tổng 6 (30) 14 (70) 20 (100)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 189
30% bệnh nhân đã nghỉ hưu, các bệnh nhân
nữ hầu hết là buôn bán hay nội trợ. Các nghề
khác như luật sư, kỹ sư, công an, nông dân ít gặp
hơn (Bảng 2).
Bảng 2: Nghề nghiệp của bệnh nhân liken miệng.
Nghề Nam
Số ca (%)
Nữ
Số ca (%)
Tổng
Số ca (%)
Buôn bán
Nội trợ
Về hưu
Nghề khác
0 (0)
0 (0)
2 (10)
4 (20)
4 (20)
4 (20)
4 (20)
2 (10)
4 (20)
4 (20)
6 (30)
6 (30)
Tổng 6 (30) 14(70) 20 (100)
Trong số 14 bệnh nhân nữ, có 8 người (chiếm
40%) đang bị căng thẳng và bệnh toàn thân như
cao huyết áp, tim mạch, đái tháo đường, viêm
gan siêu vi C, suyển, viêm khớp. Trong 6 bệnh
nhân nam, chỉ có 1 người bị cao huyết áp.
Bảng 3: Tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân liken
miệng.
Bệnh sử Nam
Số ca (%)
Nữ
Số ca (%)
Tổng
Số ca (%)
Cao huyết áp
Tim mạch
ðái tháo ñường
Viêm gan siêu vi C
Suyển
Viêm khớp
Căng thẳng
1 (5)
0 (0)
0 (0)
0 (0)
0 (0)
0 (0)
0 (0)
1 (5)
1 (5)
1 (5)
1 (5)
2 (10)
1 (5)
1 (5)
2 (10)
1 (5)
1 (5)
1 (5)
2 (10)
1 (5)
1 (5)
Tổng 1 (5) 8 (40) 9 (45)
Ghi nhận 8 trường hợp có kích thích tại chỗ,
chiếm 40%; trong đó 3 trường hợp có miếng
trám amalgam, 2 trường hợp phục hình răng, 2
trường hợp chân răng bén nhọn và 1 trường hợp
cắn má (Bảng 4).
Bảng 4: Các kích thích tại chỗ tổn thương liken
miệng.
Nghề N.mạc má
Số ca (%)
ðáy hành
lang
Số ca (%)
Tổng
Số ca (%)
Trám Amalgam
Phục hình răng
Chân răng bén
Cắn má
3 (15)
1 (5)
1 (5)
1 (5)
0 (0)
1 (20)
1 (20)
0 (0)
3 (15)
2 (10)
2 (10)
1 (5)
Tổng 6 (30) 2 (10) 8 (40)
Liken miệng thường xảy ra ở niêm mạc má
47% và thường có cả hai bên, kế đến là nướu
răng 17%, đáy hành lang 14%, lưỡi 11%, môi 8%
và khẩu cái 3%. Dạng lâm sàng phổ biến nhất là
dạng chợt, chiếm 55% (Bảng 5).
Bảng 5: Vị trí và dạng tổn thương liken miệng
Vị trí Dạng tổn thương (số ca, %) Tổng
Lưới Mảng Chợt Teo
N.mạc má 4 (11) 0 (0) 11 (30) 2 (5) 17 (47)
Nướu 1 (3) 0 (0) 4 (11) 1 (3) 6 (17)
Hành lang 2 (6) 0 (0) 3 (8) 0 (0) 5 (14)
Lưỡi 1 (3) 2 (6) 1 (3) 0 (0) 4 (11)
Môi 3 (8) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 3 (8)
Khẩu cái 0 (0) 0 (0) 1 (3) 0 (0) 1 (3)
Tổng 11(31) 2 (6) 20 (55) 3 (8) 36 (100)
Xét nghiệm cấy nấm cho kết quả dương tính
trong 7 trường hợp, chiếm tỉ lệ 35%, trong đó có
5 trường hợp(25%) là Candida albicans.
Tế bào học cho thấy các tế bào biểu mô có
hình dạng bình thường, phân bố rời rạc, bào
tương bắt màu cam hay hồng nhạt, một số tế bào
có nhân bị vỡ thành các hạt nhỏ rải rác trong bào
tương, có bạch cầu đa nhân hình múi và tương
bào.
Điều trị theo một phác đồ thống nhất nêu
trên. Sau khi loại bỏ kích thích tại chỗ, không có
trường hợp nào khỏi hoàn toàn, chỉ có 3 trường
hợp giảm đau, giảm viêm. Vào thời điểm sau ba
tuần điều trị, ghi nhận có 3 trường hợp khỏi hẳn
và 16 trường hợp giảm một phần. Sau sáu tuần
điều trị có 4 trường hợp khỏi hẳn (Bảng 6).
Không có trường hợp nào chống chỉ định
corticoid, tuy nhiên sau 3 tuần và sau 6 tuần điều
trị chỉ còn 1 trường hợp không giảm và được
chuyển bệnh viện Da liễu. Theo dõi sau 6 tháng
có 2 trường hợp tái phát.
Bảng 6: Kết quả điều trị 20 bệnh nhân liken.
Lần ñánh giá Khỏi hẳn
Số ca (%)
Giảm một
phần Số
ca (%)
Không
giảm Số
ca (%)
Sau khi loại kích thích 0 (0) 3 (15) 17 (85)
Sau ba tuần ñiều trị 3 (15) 16 (80) 1 (5)
Sau sáu tuần ñiều trị 4 (20) 15 (75) 1 (5)
BÀN LUẬN
Về đặc điểm dịch tễ lâm sàng
Liken phẳng niêm mạc miệng là một bệnh tự
miễn, chiếm tỉ lệ 1-2% trong dân số(9). Bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 190
thường gặp ở phụ nữ tuổi trung niên. Kết quả
nghiên cứu 20 trường hợp liken miệng cũng cho
thấy nữ mắc bệnh nhiều hơn nam giới, chiếm tỉ
lệ 70%. Ở nữ giới, bệnh tập trung ở nhóm tuổi từ
40-60 tuổi (55%), chỉ có 5% dưới 40 tuổi và 10%
trên 60 tuổi. Độ tuổi thường gặp nhất ở nam
cũng là tuổi trung niên (40-49 tuổi) nhưng sớm
hơn nữ giới (50-59 tuổi). Nhìn chung cả hai giới,
75% liken xảy ra ở tuổi trung niên (40-60 tuổi),
chỉ có 1 trường hợp ở người nữ trẻ dưới 40 tuổi.
Các nghiên cứu đều công nhận sự chênh
lệnh rõ giữa nam và nữ trong số bệnh nhân liken
miệng(1,2,14), mặc dù tỉ lệ nam:nữ có thể khác nhau
tùy dân số nghiên cứu. Tỉ lệ nam:nữ trong
nghiên cứu này là 1:2,3; trong nghiên cứu của
Xue và cs ở Trung Quốc (2005)(14) là 1:1,19, trong
nghiên cứu của Eisen và cs ở Mỹ (2002)(5) là 1:3.
Nguyên nhân của liken phẳng còn chưa rõ
và khá phức tạp, tuy nhiên đến nay đã tìm thấy
một số yếu tố thuận lợi có thể làm khởi phát
những đợt tiến triển nhanh của bệnh như bệnh
toàn thân, điều trị nha khoa, dị ứng, căng thẳng,
lo âu, suy sụp tinh thần, vệ sinh răng miệng
kém(3,5,9). Nghiên cứu này cũng ghi nhận 8 bệnh
nhân (40%) có những bệnh lý toàn thân đi kèm
như cao huyết áp, bệnh tim mạch, đái tháo
đường, viêm gan siêu vi C, suyển, viêm khớp; và
họ hầu như phải dùng thuốc lâu dài. Nghiên cứu
chỉ ghi nhận được 1 trường hợp có căng thẳng
thường xuyên trong cuốc sống, sự căng thẳng
này có thể từ cuộc sống hằng ngày nhưng cũng
có thể là sự lo âu quá mức về bệnh.
Liken miệng xảy ra ở mọi vị trí trong niêm
mạc miệng với xuất độ khác nhau, tuy nhiên tỉ lệ
xuất hiện cao ở niêm mạc má hơn các vị trí khác
và thường đối xứng ở cả hai bên, nhất là phía
sau của niêm mạc má(6). Mặc dù khảo sát trên số
lượng ít nhưng kết quả ghi nhận được cũng
tương tự với các nghiên cứu khác(1,13,14). Bên cạnh
47% biểu hiện ở niêm mạc má, chúng tôi cũng
ghi nhận các trường hợp biểu hiện ở nướu răng
17%, niêm mạc hành lang 14%, lưỡi 11%, môi 8%
và khẩu cái 3%. Chúng tôi không ghi nhận được
trường hợp nào có biểu hiện ngoài da đi kèm
trong khi nhiều tác giả ghi nhận 15- 40% trường
hợp có tổn thương ngoài da(1,3,8,13). Sự khác biệt
này có thể do bệnh nhân có bệnh lý ngoài da
thường khám ở chuyên khoa da liễu hơn là răng
hàm mặt, trong khi chúng tôi chỉ khảo sát ở
Phòng khám của Khoa Răng Hàm Mặt.
Liken phẳng có 6 dạng lâm sàng: lưới, chợt,
teo, mảng, sần và bóng nước(3), trong đó dạng
lưới phổ biến nhất, với những đường mảnh
trắng đan nhau (được gọi là sọc Wickham). Tuy
nhiên, chúng tôi ghi nhận phổ biến nhất là dạng
chợt (55%). Ở dạng này, bệnh nhân thường đau
nhiều, trong khi dạng lưới và dạng mảng không
hoặc rất ít triệu chứng nên ít khi bệnh nhân biết
và đi khám. Đau là lý do chính khiến bệnh nhân
phải đi khám và phát hiện bệnh, do vậy thường
gặp dạng chợt ở nhóm bệnh nhân đến khám.
Dạng này xảy ra chủ yếu ở niêm mạc má, nướu
răng và đáy hành lang, dạng mảng gặp ở lưng
lưỡi; đa số bệnh nhân đều có tổn thương ở nhiều
vị trí chứ không chỉ khu trú ở một vị trí.
Nhiễm nấm thường gặp trên các tổn thương
liken. Tuy nhiên, có tác giả cho rằng sự hiện diện
của C. albicans không hỗ trợ cho chẩn đoán cũng
như điều trị do C. albicans hiện diện trong hơn
70% dân số(8). Tuy tỷ lệ nhiễm nấm trong nghiên
cứu này không cao (35%) như những nghiên cứu
khác nhưng các trường hợp có xét nghiệm nấm
dương tính thì đáp ứng tốt với điều trị có phối
hợp kháng nấm.
Về mặt chẩn đoán
Chẩn đoán liken miệng nên dựa trên lâm
sàng và giải phẫu bệnh. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp điển hình, có thể chỉ cần chẩn đoán
dựa trên dạng lâm sàng và vị trí đặc trưng của
tổn thương(3,6).
Liken hiện diện kéo dài, tiến triển từng đợt
biểu hiện đỏ, chợt, loét và đau. Những đợt tiến
triển rầm rộ này thường liên quan với những lúc
căng thẳng lo âu, chấn thương cơ học do răng
hay phục hình răng, những kích thích mạn tính
vùng miệng từ mảng bám răng hay vôi răng
(hiện tượng Koebner)(3). Nghiên cứu này ghi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 191
nhận 5 bệnh nhân (25%) có vật liệu trám răng
hay phục hình gần vùng tổn thương, và 3 bệnh
nhân (15%) thường bị chấn thương niêm mạc do
thường xuyên cắn má hay do cạnh răng sắc bén.
Những trường hợp này cần phân biệt với tổn
thương phản ứng dạng liken, là tổn thương gây
ra do phản ứng với thuốc hay vật liệu phục hình
răng, thường xảy ra chỉ ở một bên niêm mạc nơi
có nguyên nhân kích thích và bệnh sẽ lui nhanh
khi loại bỏ được kích thích(3,8,9,13).
Liken miệng thường được chẩn đoán xác
định bằng mô bệnh học để phân biệt với các
dạng bệnh lý có sang thương trắng hay loét mạn
tính khác như phản ứng sừng hóa, nhiễm nấm
candida tăng sản mạn tính, loạn sản biểu mô,
ung thư(4,8,10). Trong nghiên cứu này, việc chẩn
đoán dựa trên đặc điểm lâm sàng, kết hợp tế bào
học và điều trị, xét nghiệm mô bệnh học chỉ
được thực hiện trong trường hợp không đáp
ứng với điều trị.
Xét nghiệm chải tế bào niêm mạc miệng có
nhiều ưu điểm là đơn giản, thực hiện được ở
phòng khám, không đau và hầu như không xâm
lấn, có thể thực hiện ở nhiều tổn thương cùng
lúc. Do vậy, chúng tôi áp dụng trong chẩn đoán
liken để xác định viêm chứng, và nhất là để kiểm
tra phát hiện sớm nghịch sản và sự hóa ác của
tổn thương liken, thuận lợi trong việc theo dõi.
Kết quả cho thấy các tế bào biểu mô có hình
dạng bình thường, phân bố rời rạc, bào tương
bắt màu cam hay hồng nhạt, một số tế bào có
nhân bị vỡ thành các hạt nhỏ rải rác trong bào
tương, có bạch cầu đa nhân hình múi và tương
bào. Tuy hình ảnh tế bào học không đặc trưng
nhưng cũng cho thấy có tình trạng viêm ở
những bệnh nhân này, và không có ca nào bị
loạn sản hay ác tính.
Về mặt điều trị
Có nhiều phương thức và nhiều loại thuốc
dùng điều trị liken(3,4,7,8,12), nhưng chủ yếu vẫn là
sử dụng corticoid nhằm giảm viêm. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng corticoid kết
hợp với dung dịch kháng nấm ngậm trong
miệng (trường hợp có nhiễm nấm). Những bệnh
nhân có triệu chứng nhẹ chỉ cần sử dụng
Fluocinolone dạng mỡ bôi tại chỗ. Một số trường
hợp có triệu chứng nặng, đau nhiều, chúng tôi
kết hợp với corticoid đường uống trong thời gian
3 tuần với liều duy nhất vào buổi sáng. Theo
Surgeman và cs (2002)(11), việc kết hợp thuốc bôi
tại chỗ và thuốc uống cho hiệu quả tốt.
Trong số 20 bệnh nhân được điều trị, có 4
trường hợp khỏi hẳn. Tuy tỉ lệ này không cao,
nhưng do tiêu chuẩn đánh giá “khỏi” trong
nghiên cứu này là hết các triệu chứng và lành
thương hoàn toàn. Kết quả điều trị cho thấy
không có trường hợp nào tiến triển nặng hơn lúc
đầu, phần lớn các trường hợp chỉ chuyển từ
dạng nặng (chợt/loét/teo) sang dạng lưới. Ngoài
đặc tính dai dẳng của bệnh, hiệu quả điều trị
thấp có thể do corticoid thoa tại chỗ không có
chất oralbase để dễ dính vào niêm mạc nên phát
huy không đủ tác