Sau nhiều thảo luận, đề xuất, Đề án thành lập cơ quan chuyên trách đại diện chủ sở hữu với doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và vốn nhà nước tại DN đã được chốt lại ở hai mô hình để lựa chọn. Song, lựa chọn mô hình nào để doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả là bài toán cần cân nhắc.
Mô hình thứ nhất là thành lập mới một Ủy ban thuộc Chính phủ với 2 phương án. Một là thành lập
trên cơ sở điều chuyển cán bộ từ các bộ, ngành liên quan và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà
nước (SCIC). Hai là nâng cấp SCIC thành Ủy ban. Mô hình thứ hai cơ quan chuyên trách là doanh nghiệp
trên cơ sở nâng cấp SCIC.
5 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 477 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lựa chọn mô hình quản lý vốn doanh nghiệp nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN56 Số 115 - tháng 5/2017
löÏa choÏn moâ hình quaûn lyù voán
Doanh nghieäp nhaø nöÔùc
TRịNH THị PHƯơNG MAI*
*Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội
Sau nhiều thảo luận, đề xuất, Đề án thành lập cơ quan chuyên trách đại diện chủ sở hữu với doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và vốn nhà nước tại DN đã được chốt lại ở hai mô hình để lựa chọn. Song, lựa chọn mô hình nào để doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả là bài toán cần cân nhắc.
Mô hình thứ nhất là thành lập mới một Ủy ban thuộc Chính phủ với 2 phương án. Một là thành lập
trên cơ sở điều chuyển cán bộ từ các bộ, ngành liên quan và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà
nước (SCIC). Hai là nâng cấp SCIC thành Ủy ban. Mô hình thứ hai cơ quan chuyên trách là doanh nghiệp
trên cơ sở nâng cấp SCIC.
Mỗi mô hình có thế mạnh riêng
Phân tích về điểm mạnh, yếu của 2 mô hình,
TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Quản
lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, mỗi mô
hình đều có những lợi thế riêng. Mô hình cơ quan
thuộc Chính phủ có vị thế pháp lý và chính trị
mạnh hơn mô hình doanh nghiệp, trong việc thực
hiện đầy đủ chức năng đầu tư và kinh doanh vốn
nhà nước tại doanh nghiệp, nhất là nhiệm vụ đầu
tư phát triển các ngành, lĩnh vực cần tới vai trò
của doanh nghiệp nhà nước và vốn đầu tư nhà
nước. Tuy nhiên, do là cơ quan nhà nước nên việc
khuyến khích động lực và trách nhiệm nâng cao
hiệu quả quản lý chưa rõ ràng và cụ thể như mô
hình doanh nghiệp.
Trong khi đó, mô hình doanh nghiệp thì có ưu
điểm lớn là về phương diện đầu tư vốn để sinh lời,
tạo động lực, trách nhiệm và phù hợp hơn với hoạt
động kinh doanh vốn nhà nước. Song, do vị thế
pháp lý và chính trị yếu nên không dễ chuyển các
Tập đoàn, Tổng công ty về doanh nghiệp này quản
lý; do cơ chế kinh doanh vì lợi nhuận nên khó thực
hiện chức năng đầu tư phát triển các ngành, lĩnh
vực nền tảng, cần tới vai trò của doanh nghiệp nhà
nước và của kinh tế nhà nước...
Theo ông Cung, cơ quan quản lý vốn nhà nước
phải là một nhà đầu tư chủ động, trả lời được các
câu hỏi mà hiện tại Chính phủ cũng không dễ đưa
ra như: “Hiện đang có bao nhiêu tài sản công có
tính thương mại, nằm ở đâu, dưới dạng nào, cái
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 57Số 115 - tháng 5/2017
nào đang sinh lợi, cái nào kém hiệu quả, cái nào
cần tiếp tục để thực hiện mục tiêu phát triển kinh
tế hay vốn “mồi”, cái nào cần thoái để trả lại không
gian cho đầu tư tư nhân?...”
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là sẽ không có
một cơ quan vừa làm chức năng hoạch định chính
sách, điều tiết, quản lý thị trường, lại vừa quyết định
đầu tư, kinh doanh. “Dù gọi với cái tên gì đi chăng
nữa thì cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở
hữu nhà nước tại doanh nghiệp sẽ phải hạn chế tối
đa sự can thiệp hành chính và can thiệp chính trị
mang tính vụ việc vào quản lý và sử dụng tài sản
nhà nước, làm sai lệch mục tiêu chiến lược và dài
hạn của đầu tư nhà nước”, ông Cung nhấn mạnh.
Cũng phân tích từ khía cạnh mạnh – yếu của
mỗi mô hình, ông Nguyễn Xuân Thành - Giám đốc
Phát triển, Trường Đại học Fulbright Việt Nam
khẳng định: “Sẽ không có phương án nào đáp ứng
được toàn bộ các mục tiêu đề ra mà phải lựa chọn
phương án tối ưu hơn bằng cách xác định mục tiêu
nào là quan trọng nhất”. Theo đó, mô hình doanh
nghiệp có điểm thuận lợi nhất là tập trung vào việc
tối đa hoá hiệu quả hoạt động và gắn động cơ của
mô hình doanh nghiệp đấy với hiệu quả là tối đa
hoá lợi ích cổ đông trong đó Nhà nước với vai trò là
một cổ đông trong doanh nghiệp. Trong khi đó, mô
hình một cơ quan nhà nước vẫn thúc đẩy doanh
nghiệp nhà nước thực hiện mục tiêu chính trị, kinh
tế-xã hội.
Mô hình doanh nghiệp phù hợp hơn
Dựa trên những phân tích về ưu-nhược điểm
của hai mô hình này, ông Đặng Quyết Tiến - Phó
Cục trưởng, Cục Tài chính Doanh nghiệp (Bộ Tài
chính) đề xuất xem xét mô hình tổ chức đại diện
chủ sở hữu theo mô hình Công ty đầu tư kinh
doanh vốn nhà nước.
Về địa vị pháp lý, Công ty đầu tư kinh doanh
vốn nhà nước tổ chức theo hình thức Công ty
TNHH MTV thuộc Chính phủ; tổ chức, quản lý và
hoạt động quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật
số 69/2014/QH13, sẽ giúp cho mô hình công ty đầu
tư vốn nhà nước hoàn thiện hơn, đảm bảo thực thi
tốt 3 nội dung.
Thứ nhất, mô hình công ty sẽ thay đổi cách
thức quản lý và nhân lực, không chỉ thực hiện vai
trò cổ đông thụ động tại công ty cổ phần, mà còn
phải thực hiện trách nhiệm của chủ sở hữu doanh
nghiệp nhà nước với nhiều công việc phức tạp và
khó khăn hơn như bổ nhiệm cán bộ, phê duyệt
kế hoạch sản xuất kinh doanh, giám sát, đánh giá
doanh nghiệp, phê duyệt hoặc quyết định các dự án
đầu tư lớn của doanh nghiệp...
Thứ hai, dễ dàng áp dụng hệ thống quản trị
doanh nghiệp, quản trị vốn đầu tư theo đúng thông
lệ quốc tế, thúc đẩy nguyên tắc bắt buộc công khai,
minh bạch thông tin tài chính, thông tin hoạt động
sản xuất kinh doanh và tăng trách nhiệm giải trình
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN58 Số 115 - tháng 5/2017
của Ban lãnh đạo công ty, gắn trách nhiệm chính
trị của người đứng đầu công ty trước bộ, ngành,
Chính phủ, Quốc hội và Trung ương về kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đây chính là lời giải cho bài toán về mối quan
hệ trong điều hành sản xuất kinh doanh khi thực
hiện chuyển quyền đại diện vốn nhà nước từ các
Tập đoàn, Tổng công ty quy mô lớn về thuộc
quyền quản lý của mô hình doanh nghiệp; và
giúp doanh nghiệp làm tốt công tác tham mưu,
phối hợp với các bộ chuyên ngành lựa chọn cán
bộ lãnh đạo chủ chốt trình Thủ tướng Chính phủ
xem xét, bổ nhiệm.
Thứ ba, khi chuyển các doanh nghiệp nhà nước
và doanh nghiệp có vốn nhà nước về mô hình công
ty, thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu đối với vốn
nhà nước tại doanh nghiệp sẽ tham gia phối hợp
giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành
và thực hiện chính sách sắp xếp, đổi mới doanh
nghiệp nhà nước và đầu tư phát triển các ngành
cần tới vai trò của doanh nghiệp nhà nước sát thực
tiễn, đảm bảo công khai, minh bạch hơn.
Nhà nước là chủ sở hữu của doanh nghiệp đầu
tư vốn nhà nước. Chính phủ thống nhất thực hiện
quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với
cơ quan chuyên trách. Thủ tướng Chính phủ trực
tiếp thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu theo
phân công của Chính phủ.
Công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước
sẽ đảm nhận là cơ quan đại diện chủ sở hữu của
doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước chuyển
giao từ các bộ, ngành, địa phương, bao gồm cả
doanh nghiệp nhà nước và phần vốn nhà nước do
SCIC hiện nay quản lý.
Về phương diện quản lý kinh tế và quản trị kinh
doanh, mô hình doanh nghiệp sẽ tạo động lực,
trách nhiệm và phù hợp hơn với hoạt động quản
lý vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Nhờ đó, việc giám sát, đánh giá của Nhà nước cũng
thuận tiện và dễ dàng hơn so với mô hình cơ quan
hành chính nhà nước.
Công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước sẽ đảm
bảo nguyên tắc là người đồng hành cùng với các
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn
nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Theo đó, sẽ không thiết lập cơ chế cấp trên - cấp
dưới theo mô hình công ty mẹ - công ty con đối với
các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, không tạo
ra sự xung đột, cản trở công tác điều hành, quản trị
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng
thời sẽ thống nhất lợi ích gia tăng lợi nhuận đối với
các doanh nghiệp kinh doanh...
“Như vậy, việc lựa chọn mô hình nào phù hợp
nhất, thuận lợi và có hướng đến phát triển trong
tương lại cần được xem xét cặn kẽ tránh việc phải
sửa chữa, hoàn thiện nhiều lần. Xuất phát từ yêu
cầu đó, chúng tôi cho rằng mô hình tổ chức đại
diện chủ sở hữu vốn nhà nước theo hình thức công
ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước cần được phân
tích, đánh giá đúng những điểm mạnh vốn có của
mô hình”, ông Tiến nói.
Ưu tiên tính hiệu quả
Xem xét từ tính hiệu quả của hai mô hình này,
ông Nguyễn Xuân Thành cho rằng, thời gian qua
chúng ta đặt quá nặng và yếu tố chính trị, sử dụng
doanh nghiệp nhà nước làm công cụ để điều tiết
kinh tế vĩ mô và chính vì vậy chúng ta đã gặp phải
một số trục trặc hiện nay như về hiệu quả thấp, các
dự án đầu tư không tuân thủ theo nguyên tắc thị
trường như 12 dự án nghìn tỷ đồng thua lỗ, yếu
kém trong ngành công thương.
Do đó, vị giảng viên Fulbright đề xuất, thứ
tự ưu tiên là hiệu quả kinh doanh, tuân theo các
nguyên tắc của thị trường, chức năng quản lý nhà
nước đã tách bạch. Mục tiêu phải là hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp là cao nhất chứ không
phải là mục tiêu chính trị, phát triển kinh tế xã
hội chung chung.
“Và như vậy, mô hình doanh nghiệp là tốt hơn.
Điểm quan trọng hơn là trong mô hình doanh
nghiệp, không phải Công ty đầu tư vốn nhà nước
như là siêu doanh nghiệp, mà quan trọng là: trong
mô hình công ty quản lý vốn hay quỹ đầu tư, mọi
cơ chế phải gắn liền với hiệu quả hoạt động doanh
nghiệp”, ông Thành kết luận.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 59Số 115 - tháng 5/2017
choáng thaát thoaùt, laõng phÍ
taøi saûn coâng
Tài sản công đang được điều chỉnh bởi nhiều luật song lại chưa bao quát thực tiễn trong quá trình quản lý loại tài sản này. Bên cạnh đó, quy định xử phạt rất chung chung dẫn đến tình trạng nhiều vi phạm vẫn diễn ra liên tục. Đây là những điểm đáng ngại trong công tác quản lý tài sản công hiện nay.
Hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế
Đánh giá về hệ thống pháp luật quản lý tài sản
công hiện hành, ông Nguyễn Tân Thịnh, Phó Cục
trưởng Cục Quản lý công sản (Bộ Tài chính) cho
rằng vẫn còn rất nhiều hạn chế, trong đó, điểm
đáng chú ý nhất là hệ thống pháp luật. Hiện việc
quản lý, sử dụng tài sản công của chúng ta được
điều chỉnh bởi rất nhiều luật khác nhau, chưa có
một luật nào quy định những quyên tắc chung
trong quản lý, sử dụng tài sản công.
Do vậy, đối với mỗi loại tài sản cụ thể, tùy theo
mục tiêu quản lý chuyên ngành mà có các quy định
về chế độ sử dụng khác nhau, chưa có những mục
tiêu chung. Trong hệ thống văn bản có những điểm
chưa đầy đủ, chưa phù hợp và còn chồng chéo. Bên
cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật chưa bao quát
được thực tiễn, vì một cơ quan, đơn vị ở đồng bằng
thì khác với một cơ quan ở miền núi.
Về phương thức trang bị tài sản hiện nay, chủ
yếu chúng ta vẫn thiên về hiện vật, như trang bị
ô tô, máy tính còn việc sử dụng các công cụ thị
trường như thuê, khoán, sử dụng các hình thức đối
tác công- tư trong việc đầu tư xây dựng, quản lý,
vận hành đối với quản lý tài sản công còn ít.
Tài sản trong khu vực hành chính sự nghiệp
hiện nay chiếm xấp xỉ 70% tổng tài sản của các
cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên việc đổi mới cơ chế
quản lý trong thưc tế còn chậm. Việc thực hiện
các chính sách khuyến khích xã hội hóa các lĩnh
vực sự nghiệp công theo Quyết định của Chính
phủ hiện còn chậm. Một số địa phương chưa ban
hành được danh mục và ưu đãi về tiền thuê đất,
tiền sử dụng đất.
Quỹ nhà đất của các cơ quan, đơn vị mặc dù
chiếm tỷ trọng lớn nhưng hiệu suất sử dụng chưa
cao. Theo thống kê, nhà cấp ba, cấp bốn vẫn chiếm
một tỷ trọng cao. Còn có những tình trạng sử
dụng không đúng mục đích thì trong thực tế có,
có những trường hợp còn bố trí nhà ở trong khuôn
viên cơ quan, hoặc sử dụng cho thuê, liên doanh,
liên kết.
Theo ông Thịnh, việc xử lý tài sản công của
chúng ta hiện nay cũng như công tác quản lý nói
chung đã phân cấp tương đối mạnh cho các cơ
quan, đơn vị và các cơ quan, đơn vị đều thực hiện
các công việc giống nhau nên việc xử lý bị manh
mún, phân tán.
Vẫn còn tư tưởng bao cấp
Khá đồng tình với ý kiến của ông Thịnh, PGS.
TS Đinh Văn Nhã, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài
chính và Ngân sách của Quốc hội cho rằng, một
trong những hạn chế rất lớn là quản lý tài sản công
chưa gắn với quản lý theo giá trị. Mặt khác, theo
ông Nhã, về cơ bản vẫn còn tư tưởng bao cấp, cán
bộ thi hành nghiệp vụ không chuyên nghiệp, có khi
là kiêm nhiệm... dẫn đến hạn chế rất lớn là nhiều
dịch vụ công liên quan đến tài sản công hiện nay cơ
bản vẫn do cơ quan nhà nước làm, mà đáng ra phải
tạo một cơ chế để phát triển thị trường dịch vụ này.
Điều này có thể thấy rõ qua việc giao đất. Trước
đây một thời gian dài, phần lớn đất đai sản xuất là
chúng ta giao đất không thu tiền. Nhưng từ khi có
DUY áNH
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN60 Số 115 - tháng 5/2017
Luật Đất đai 2013, cơ bản đã chuyển sang cho thuê,
đây là một phương pháp quản lý đất gắn với thị
trường. Mặc dù chúng ta cho thuê với giá rất thấp
nhưng đã thể hiện một sự tiến bộ để đạt được mục
tiêu công bằng và mục tiêu cao hơn là sử dụng hiệu
quả tài sản của Nhà nước.
Một ví dụ khác có thể xem xét là khoán xe công,
mua sắm công tập trung một số các mặt hàng. Hay
thí điểm quản lý ngân sách nhà nước hàng năm
theo phương pháp quản lý kết quả đầu ra ở 5 địa
phương, 5 bộ và đã đạt được nhiều kết quả quan
trọng. Như vậy, những phương pháp quản lý tài
sản công hiện đại đã ghi nhận được những kết quả
quan trọng.
Nhận xét về những phương pháp quản lý tài sản
công kể trên, ông Nhã phàn nàn là những phương
pháp đó được luật hóa muộn quá, áp dụng trong
phạm vi quá hẹp nên thành tựu chưa lớn, tác động
ảnh hưởng của chưa rộng. Nhìn từ góc độ luật
pháp, đây chính là lỗ hổng của pháp luật.
“Một điểm hạn chế cực lớn nữa, trong quản lý,
sử dụng tài sản công hiện nay là các quy định xử
phạt pháp luật, các chế tài xử lý còn hết sức hạn chế,
chung chung nên vi phạm xảy ra liên tục, lặp đi lặp
lại, có thể năm sau mức độ nặng hơn năm trước,
diện rộng hơn... Tôi cho rằng chế tài của chúng ta
còn bao che, dung túng tội phạm hơn là xử lý tội
phạm bởi vì tính răn đe thấp”, ông Nhã nhấn mạnh.
Do đó, dù sắp tới hệ thống pháp luật của Việt
Nam có đầy đủ, bảo đảm được yêu cầu quản lý
thống nhất sau khi Quốc hội thông qua Luật
Quản lý, sử dụng tài sản công thì một trong những
vấn đề quan trọng để đưa luật này vào cuộc sống
chính là vấn đề công khai, minh bạch thông tin về
tài sản công.
Các cơ quan theo quy định của luật được giao
cho quyền quản lý và sử dụng, khai thác, kể cả các
cơ quan cung cấp dịch vụ cho quản lý tài sản công
phải thông tin công khai. Bất cứ một đối tượng nào
dù là người dân ngồi ở nhà vào mạng cũng có thể
biết xem bộ này, ngành này, địa phương này thậm
chí là đơn vị tài khoản cấp 2, cấp 3 sử dụng tài sản
công mua sắm như thế nào.
“Nếu chúng ta tổ chức tốt, hướng dẫn tốt thì sắp
tới người dân sẽ có thông tin số liệu là những con
số biết nói, có thuyết minh chi tiết. Từ đó, có nền
tảng cơ sở sữ liệu từ người có trách nhiệm cung
cấp rồi người được tiếp cận thông tin rất là phong
phú đa dạng. Người dân có quyền tố cáo, khiếu nại
về những người có quyền được giao quyền quản
lý sử dụng tài sản là anh không minh bạch, không
công khai theo quy định của pháp luật. Nếu ta làm
nghiêm như vậy về hệ thống thông tin cả nước sẽ
rất minh bạch. Theo tôi thông tin phải nhiều chiều
mới đáp ứng được yêu cầu quản lý”, ông Nhã nói.