Biện pháp bắt người là một trong các BPNC trong TTHS được áp dụng rất phổ
biến trong thực tiễn và đã phát huy được vai trò to lớn trong việc giải quyết vụ án
hình sự. Việc áp dụng biện pháp bắt người đúng đắn, kịp thời là sự bảo đảm rất quan
trọng cho việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện nhanh chóng,
chính xác và xử lý công minh mọi hành vi phạm tội, không làm oan người vô tội
cũng như không để lọt tội phạm; góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và chế độ XHCN. Bên cạnh đó,
việc áp dụng biện pháp bắt người cũng là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị -
xã hội, bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến một số quyền con người và quyền cơ bản
của công dân được quy định trong Hiến pháp, như: quyền bất khả xâm phạm về thân
thể; quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người.; nó liên quan nhiều đến việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt việc điều chỉnh pháp luật đối với biện
pháp bắt người trong TTHS còn thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế vì
nó liên quan trực tiếp đến vấn đề nhân quyền. Do đó, những vi phạm pháp luật về
biện pháp bắt người, nhất là những vi phạm xâm phạm đến quyền con người trong
TTHS dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá
Đảng và Nhà nước ta.
Hiện nay, dưới góc độ khoa học, việc nhận thức về biện pháp bắt người còn
tồn tại nhiều quan niệm khác nhau, hệ thống lý luận về biện pháp bắt người còn
chưa được hoàn thiện. Đặc biệt nhiều chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt
người còn chưa nhận thức đầy đủ về: bản chất pháp lý; mục đích áp dụng biện pháp
bắt người; ý nghĩa của điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người; như còn
có những nhận thức sai lầm khi cho rằng mục đích áp dụng BPNC nói chung và
biện pháp bắt người nói riêng là “tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành bản án hình sự” [51, tr. 199] nên đã dẫn đến sự lạm dụng biện
pháp bắt người, dùng biện pháp bắt người để thay thế cho các hoạt động điều tra2
khác Bên cạnh đó, Bộ luật TTHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành với nhiều
quy định mới về biện pháp bắt người cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ.
188 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 702 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ VĂN VỊNH
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔ VĂN VỊNH
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9 38 01 04
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS HỒ TRỌNG NGŨ
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dẫn liệu,
kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về
tất cả những dẫn liệu, kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Ngô Văn Vịnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................................... 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................................... 8
1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................... 22
1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án ......................................... 24
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................. 27
2.1. Khái niệm, đặc trưng pháp lý, phân loại biện pháp bắt người và mối quan
hệ giữa biện pháp bắt người với các biện pháp ngăn chặn khác trong tố tụng
hình sự ....................................................................................................................... 27
2.2. Điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự .......... 45
2.3. Các yếu tố cơ bản tác động đến việc áp dụng biện pháp bắt người trong tố
tụng hình sự Việt Nam .............................................................................................. 57
Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG ............. 69
3.1. Khái quát quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp
bắt người trước năm 2015 ......................................................................................... 69
3.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về biện pháp
bắt người .................................................................................................................... 77
3.3. Thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam ................................................................................................................... 92
Chương 4: DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM ........................................................................ 1155
4.1. Dự báo tình hình áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình
sự ở Việt Nam ....................................................................................................... 1155
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong pháp luật
tố tụng hình sự ở Việt Nam ................................................................................... 1222
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 1488
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................... 15050
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 1511
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ANND
BCA
BLHS
An ninh nhân dân
Bộ Công an
Bộ luật Hình sự
BPNC Biện pháp ngăn chặn
CAND Công an nhân dân
CQĐT
CSĐT
CSND
ĐHQG
ĐTHS
Cơ quan điều tra
Cảnh sát điều tra
Cảnh sát nhân dân
Đại học Quốc gia
Điều tra hình sự
ĐTV
KSV
KHXH
NXB
TAND
Điều tra viên
Kiểm sát viên
Khoa học xã hội
Nhà xuất bản
Tòa án nhân dân
TTHS Tố tụng hình sự
VKS Viện kiểm sát
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ
PHẦN I: HỆ THỐNG CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Số liệu điều tra, truy tố, xét xử trên toàn quốc
Bảng 3.2: Số đối tượng bị bắt trên toàn quốc
Bảng 3.3: Tương quan giữa các chủ thể bắt người phạm tội quả tang
Bảng 3.4: Tương quan giữa các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam và
chủ thể áp dụng
Bảng 3.5: Tương quan giữa các chủ thể bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Bảng 3.6: Tương quan giữa chủ thể bắt người đang bị truy nã
Bảng 3.7: Tình hình áp dụng biện pháp bắt
Bảng 3.8: Tình hình áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Bảng 3.9: Thống kê chức danh ĐTV của cán bộ, chiến sĩ Cơ quan CSĐT
trong CAND (tính đến tháng 10/2017)
Bảng 3.10: Trình độ nghiệp vụ Công an của cán bộ, chiến sĩ Cơ quan CSĐT
(tính đến tháng 10/2017)
PHẦN II: HỆ THỐNG CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Diễn biến số vụ án và số bị can đã khởi tố
Biểu đồ 3.2: Số đối tượng bị bắt trong toàn quốc
Biểu đồ 3.3: Số đối tượng bị bắt quả tang trong toàn quốc
Biểu đồ 3.4: Số đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm
giam trong toàn quốc
Biểu đồ 3.5: Số đối tượng bị bắt khẩn cấp trong toàn quốc
Biểu đồ 3.6: Số đối tượng bị bắt truy nã trong toàn quốc
Biểu đồ 3.7: Tương quan giữa các trường hợp bắt
Biểu đồ 3.8: Tương quan giữa các chủ thể bắt người phạm tội quả tang
Biểu đồ 3.9: Tương quan giữa các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Biểu đồ 3.10: Tương quan giữa các chủ thể bắt bị can, bị cáo để tạm giam
Biểu đồ 3.11: Tương quan giữa các chủ thể bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Biểu đồ 3.12: Tương quan giữa các chủ thể bắt người đang bị truy nã
Biểu đồ 3.13: Số đối tượng Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp
Biểu đồ 3.14: Số đối tượng Viện kiểm sát phê chuẩn bắt khẩn cấp sau trả tự
do không xử lý hình sự
Biểu đồ 3.15: Số đối tượng bắt quả tang trả tự do chuyển xử lý hành chính
Biểu đồ 3.16: Số bị can Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam
Biểu đồ 3.17: Số bị can bị bắt tạm giam do CQĐT đình chỉ vì không tội
Biểu đồ 3.18: Số bị can bị bắt tạm giam do Viện kiểm sát đình chỉ vì không tội
Biểu đồ 3.19: Trình độ nghiệp vụ Công an của CBCS Cơ quan CSĐT (tính
đến tháng 10 năm 2017)
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biện pháp bắt người là một trong các BPNC trong TTHS được áp dụng rất phổ
biến trong thực tiễn và đã phát huy được vai trò to lớn trong việc giải quyết vụ án
hình sự. Việc áp dụng biện pháp bắt người đúng đắn, kịp thời là sự bảo đảm rất quan
trọng cho việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện nhanh chóng,
chính xác và xử lý công minh mọi hành vi phạm tội, không làm oan người vô tội
cũng như không để lọt tội phạm; góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và chế độ XHCN. Bên cạnh đó,
việc áp dụng biện pháp bắt người cũng là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị -
xã hội, bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến một số quyền con người và quyền cơ bản
của công dân được quy định trong Hiến pháp, như: quyền bất khả xâm phạm về thân
thể; quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người...; nó liên quan nhiều đến việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt việc điều chỉnh pháp luật đối với biện
pháp bắt người trong TTHS còn thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế vì
nó liên quan trực tiếp đến vấn đề nhân quyền. Do đó, những vi phạm pháp luật về
biện pháp bắt người, nhất là những vi phạm xâm phạm đến quyền con người trong
TTHS dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá
Đảng và Nhà nước ta.
Hiện nay, dưới góc độ khoa học, việc nhận thức về biện pháp bắt người còn
tồn tại nhiều quan niệm khác nhau, hệ thống lý luận về biện pháp bắt người còn
chưa được hoàn thiện. Đặc biệt nhiều chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt
người còn chưa nhận thức đầy đủ về: bản chất pháp lý; mục đích áp dụng biện pháp
bắt người; ý nghĩa của điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người; như còn
có những nhận thức sai lầm khi cho rằng mục đích áp dụng BPNC nói chung và
biện pháp bắt người nói riêng là “tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành bản án hình sự” [51, tr. 199] nên đã dẫn đến sự lạm dụng biện
pháp bắt người, dùng biện pháp bắt người để thay thế cho các hoạt động điều tra
2
khác Bên cạnh đó, Bộ luật TTHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành với nhiều
quy định mới về biện pháp bắt người cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Nhận thức rõ được vai trò, tầm quan trọng của biện pháp bắt người, Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoàn thiện hoạt động TTHS nói chung và biện
pháp bắt người nói riêng, theo đó đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và đề
ra nhiều biện pháp nhằm phòng ngừa, hạn chế việc vi phạm pháp luật khi áp dụng
biện pháp bắt người. Cụ thể, để chấn chỉnh một bước quan trọng công tác tư pháp
nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN có nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, khắc
phục tình trạng vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các BPNC nói chung và biện
pháp bắt người nói riêng, Bộ Chính trị đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo công
tác tư pháp, trong đó có việc chỉ đạo, chấn chỉnh các hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam
và coi đó là những nội dung quan trọng và cấp thiết, như: Chỉ thị số 53/CT - TW ngày
21/3/2000 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp năm 2000;
Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020..., đặc biệt,
khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành với một trong những nội dung quan trọng là
đề cao quyền con người đã có những tác động không nhỏ đến việc áp dụng BPNC nói
chung và biện pháp bắt người trong TTHS nói riêng. Do đó, trong những năm gần
đây, việc áp dụng biện pháp bắt người ngày càng được chấn chỉnh, đạt được những
kết quả nhất định, góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của quá trình TTHS. Việc áp dụng biện
pháp bắt người nhìn chung đã đảm bảo được các quy định của pháp luật TTHS về căn
cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc áp dụng biện pháp
bắt người vẫn có những tồn tại, hạn chế và vi phạm nhất định, như: tình trạng lạm
dụng biện pháp bắt người còn kéo dài, gây bất bình trong dư luận xã hội; có lúc, có
nơi, một số địa phương vẫn còn để xảy ra tình trạng vi phạm về thủ tục áp dụng biện
pháp bắt người Theo Thống kê của Cục Thống kê tội phạm và công nghệ thông tin
- VKS nhân dân tối cao, từ năm 2008 đến hết năm 2017, VKS các cấp đã không phê
chuẩn lệnh bắt khẩn cấp đối với 1.162 đối tượng, (chiếm tỷ lệ là 0,62% trong tổng số
3
đối tượng bị bắt khẩn cấp), trong đó có 400 đối tượng mặc dù có sự phê chuẩn lệnh
bắt khẩn cấp của VKS nhưng sau đó phải trả tự do không xử lý hình sự (chiếm tỷ lệ
0,21% trong tổng số đối tượng bị bắt khẩn cấp); hay số đối tượng bị bắt phạm tội quả
tang sau đó trả tự do và chuyển xử lý hành chính là 29.472 đối tượng (chiếm tỷ lệ
7,42% trong tổng số đối tượng bị bắt quả tang)... Điều này đã gây ra những hậu quả
tiêu cực, như: xâm phạm nghiêm trọng nguyên tắc pháp chế XHCN; trực tiếp xâm
phạm đến các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và người bị bắt nói
riêng; đồng thời làm giảm uy tín của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Những tồn tại, thiếu sót và vi phạm nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó phải kể đến việc vận dụng không đúng các quy định của pháp luật
TTHS về biện pháp bắt người; những sơ hở, thiếu sót trong chính các quy định của
pháp luật TTHS về biện pháp bắt người; trình độ pháp luật, nghiệp vụ của một số cán
bộ áp dụng còn hạn chế; sự thiếu trách nhiệm và sa sút về đạo đức nghề nghiệp của
không ít cán bộ áp dụng biện pháp bắt người...
Về biện pháp bắt người, cho đến nay cũng đã có nhiều công trình trong và
ngoài nước nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu này đã tiếp cận, nghiên cứu từ
nhiều phương diện khác nhau, làm rõ nhiều vấn đề lý luận, pháp luật thực định và
thực trạng áp dụng biện pháp bắt người ở các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên do
khác nhau về phương pháp tiếp cận, về giới hạn địa bàn nghiên cứu, về thời gian và
phạm vi khảo sát cho nên nhiều vấn đề có liên quan đến biện pháp bắt người còn
chưa được đề cập, nghiên cứu tới.
Như vậy, hiện nay vẫn cần một công trình nghiên cứu chuyên biệt về biện
pháp bắt người trong pháp luật TTHS Việt Nam. Chính vì vậy, việc tác giả lựa chọn
đề tài “Biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận
án tiến sĩ là toàn cấp thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý
luận, quy định của pháp luật về biện pháp bắt người trong TTHS để kiến nghị các
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bắt người trong thực tiễn.
4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu của luận án, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
được xác định:
Thứ nhất, nghiên cứu, đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu có liên
quan đến biện pháp bắt người ở cả trong nước và ngoài nước, từ đó rút ra những vấn
đề cần tiếp tục được nghiên cứu trong luận án;
Thứ hai, phân tích làm rõ thêm những vấn đề lý luận về biện pháp bắt người
trong pháp luật TTHS Việt Nam, như: khái niệm, đặc trưng pháp lý; phân loại biện
pháp bắt người; mối quan hệ giữa biện pháp bắt người với các BPNC khác trong
TTHS; điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người trong TTHS; các yếu tố cơ
bản tác động đến việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS.
Thứ ba, phân tích những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về biện pháp
bắt người;
Thứ tư, khảo sát, đánh giá đúng thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong
pháp luật TTHS Việt Nam; những ưu điểm, những tồn tại, hạn chế và vi phạm pháp
luật trong quá trình áp dụng biện pháp bắt người cũng như nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế, vi phạm đó;
Thứ năm, đưa ra những dự báo khoa học về tình hình áp dụng biện pháp bắt
người trong pháp luật TTHS Việt Nam và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng biện pháp bắt người ở nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, pháp luật thực định
về biện pháp bắt người trong TTHS và thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người của
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Về pháp luật thực định, luận án tập trung nghiên cứu các quy định về biện
pháp bắt người trong Bộ luật TTHS năm 2003 và Bộ luật TTHS năm 2015. Tuy
nhiên đối với thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS, luận án chỉ khảo
sát, đánh giá về thực trạng áp dụng biện pháp bắt người theo quy định trong Bộ luật
TTHS năm 2003 (từ năm 2008 đến hết năm 2017) trên phạm vi toàn quốc.
5
Biện pháp bắt người trong TTHS do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành, tuy
nhiên luận án tập trung nghiên cứu việc áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS
của CQĐT, trong đó tập trung nghiên cứu, khảo sát số liệu từ thực tiễn áp dụng của
Cơ quan CSĐT.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước
và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật với tư tưởng nhân dân là chủ thể của quyền lực xã
hội, mọi hoạt động của nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân và việc hoàn
thiện pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân; các quan điểm của Đảng, Nhà
nước ta về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, cải cách tư pháp, nhà nước
pháp quyền và vấn đề quyền con người.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả luận án đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
Thứ nhất, phương pháp tổng hợp. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để
nghiên cứu tổng quan về tình hình nghiên cứu nhằm hệ thống hóa các quan điểm,
căn cứ lý luận, các kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa học đã được công bố
có liên quan đến biện pháp bắt người; đồng thời tổng hợp các tài liệu, số liệu phản
ánh thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trong TTHS để rút ra kết luận tổng quát;
Thứ hai, phương pháp phân tích. Phương pháp này được sử dụng bao quát
trong tất cả các chương của luận án để phân tích các tài liệu, số liệu, phát hiện, luận
giải thuyết phục về các nội dung có liên quan đến đề tài luận án;
Thứ ba, phương pháp phân tích lịch sử. Phương pháp này được sử dụng trong
Chương 3 để khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định của pháp
luật TTHS nước ta về biện pháp bắt người;
Thứ tư, phương pháp luật học so sánh. Đây là phương pháp được sử dụng
trong Chương 4 để làm sáng tỏ một số quy định về biện pháp bắt người trong pháp
6
luật của một số nước trên thế giới, từ đó rút ra những giá trị tham khảo cho Việt
Nam để hoàn thiện pháp luật;
Thứ năm, phương pháp thống kê hình sự. Phương pháp này được sử dụng để
thu thập các số liệu liên quan đến thực trạng áp dụng biện pháp bắt người trong
TTHS của cơ quan có thẩm quyền;
Thứ sáu, phương pháp chuyên gia. Đây là phương pháp được sử dụng trong tất
cả các chương của luận án để tổ chức lấy ý kiến một số nhà khoa học, nhà nghiên
cứu lý luận và cán bộ thực tiễn có chuyên môn sâu về lĩnh vực nghiên cứu để bổ
sung, hoàn chỉnh kết quả nghiên cứu;
Thứ bảy, phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình. Để có cơ sở cho việc đưa
ra những nhận xét, đánh giá trong luận án, tác giả luận án đã nghiên cứu, tìm hiểu
hồ sơ một số vụ án điểm trong đó có áp dụng biện pháp bắt người đạt kết quả cao
hoặc bộc lộ những thiếu sót dẫn đến hạn chế kết quả hoạt động TTHS. Đồng thời,
tác giả luận án đã lựa chọn nghiên cứu các hồ sơ điển hình theo từng trường hợp bắt
người với số lượng đối tượng khác nhau, trên cơ sở đó chỉ ra những ưu điểm cũng
như những tồn tại, hạn chế để có biện pháp khắc phục. Phương pháp này còn được
sử dụng để nghiên cứu việc áp dụng biện pháp bắt người ở một số đơn vị và địa
phương điển hình;
Thứ tám, phương pháp tọa đàm khoa học. Để bảo đảm tính khoa học của luận
án, tác giả luận án đã tiến hành hội thảo đề tài luận án tại Khoa Luật. Qua đó, tác giả
luận án đã tham khảo được ý kiến góp ý của các chuyên gia, các nhà khoa học về
các nội dung luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện
về biện pháp bắt người trong pháp luật TTHS Việt Nam. Do đó, luận án đã có nhiều
đóng góp mới về mặt khoa học, cụ thể như:
Thứ nhất, bổ sung, hoàn thiện thêm một số vấn đề lý luận về biện pháp bắt
người trong pháp luật TTHS Việt Nam, trong đó lần đầu tiên luận án phân tích, luận
giải về điều chỉnh pháp luật đối với biện pháp bắt người trong TTHS;
7
Thứ hai, phân tích làm rõ những sửa đổi, bổ sung mới trong các quy định về
biện pháp bắt người của Bộ luật TTHS năm 2015;
Thứ ba, bổ sung luận cứ khoa học và luận cứ thực tiễn cho việc nâng cao hiệu
quả áp dụng biệ