Luận án Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc và khả năng vận dụng tại Việt Nam

Kể từ khi xuất hiện cách đây hơn một thế kỷ, trải qua quá trình phát triển đầy biến động và thay đổi nhưng hoạt động đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vẫn không ngừng phát triển; lượng vốn đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư ngày càng tăng lên mạnh mẽ, hình thức đầu tư ngày càng phong phú đa dạng. Có thể nói, trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay trên thế giới, ĐTNN là một trong những hình thức kinh doanh không thể thiếu được củacác quốc gia khi mở cửa và hội nhập. Đến cuối năm 2006, tổng vốn FDI của cảthế giới đạt 1.340 tỷ USD và dự kiến sẽ tăng lên 1.600 tỷ USD vào năm 2011. ĐTNN đF và đang mang lợi ích cho tất cả các nước trên thế giới, cả nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư. Lợi ích lớn nhất là việc bổ sung vào năng lực vốn trong nước phục vụ đầu tư mở rộng và phát triển kinh tế, đồng thời tạo điều kiện cho các nhà đầu tư đa dạng hoá rủi ro và tối đa hoálợi nhuận. Song song với các lợi ích trên, các dòng vốn luân chuyển còn giúp quátrình phân phối nguồn lực trở nên hợp lý hơn trên phạm vi toàn thế giới và góp phần tăng tốc độ phát triển kinh tế cho các nước. Chính phủ của các nước đF và đang phát triển đều tìm cách thu hút ĐTNN thông qua chính sách tự do hoá thương mại và ưu đFiđầu tư của mình. Nhìn chung, lượng vốn ĐTNN thu hút được phụ thuộc vào chính sách và môi trường của nước nhận đầu tư cùng với môi trường quốc tế vàkhu vực, đặc biệt là các ưu đFi và khuyến khích về đầu tư. Những chính sách liên quan bao gồm việc duy trì sự ổn định vĩ mô, cơ sở hạ tầng về tài chính và kỹ thuật, sự mở rộng của thương mại quốc tế và minh bạch về chính trị. Ngoài ra để thêm hấp dẫn đối với các nhà ĐTNN, hầu hết chính sách ĐTNN đều hướng tới mục đích bảo vệ và nâng cao lợi ích của các nhà đầu tư Trung Quốc là đất nước rộng lớn với hơn 1,3 tỷ người, tài nguyên thiên nhiên phong phú và lịch sử dân tộc rất lâu đời. 7 Sau khi Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách vàmở cửa thu hút ĐTNN vào cuối năm 1978 với phương châm của nhà lFnhđạo Đặng Tiểu Bình “không phân biệt mèo trắng hay mèo đen, miễn là bắt được chuột”, Trung Quốc đF rất thành công trong hoạt động thu hút ĐTNN. Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc luôn dẫn đầu các nước đang phát triển và trong danh sách các nước đứng đầu trên thế giới về thu hút ĐTNN. Để có được thành quả đó, chính phủ Trung Quốc đF thực hiện chiến lược trải thảm đỏđón các nhà đầu tư bằng các chính sách và ưu đFi đầu tưđặc biệt. Từ sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào tháng 12 năm 2001, Trung Quốc tiếp tục thực hiện nhiều chính sách cởi mở, tạo thuận lợi hơn nữa đối với các nhà đầu tư và đF đạt được hiệu quả cao thể hiện ở lượng vốnĐTNN tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. ĐTNN đem lại tiền vốn, kỹ thuật, công nghệ và kỹ năng quản lý hiện đại cho Trung Quốc nên được coi như chiếc chìa khoá vàngmở cửa cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, trên chặng đường mò mẫm làm “kinh tế thị trường” bên cạnh những thành công đạt được, Trung Quốc không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Đối với những nước có xuất phát điểm thấp như Việt Nam, trong quá trình hội nhập, ĐTNN có vai trò hết sức quan trọng trong việcgiải quyết vấn đề thiếu vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý. Vì vậy, việc mở rộng th u hút ĐTNN đF trở thành mục tiêu cơ bản, lâu dài và là hoạt động không thể thiếu được đối với Việt Nam. Với chính sách mở cửa và làm bạn với tất cả các nước trên thế giới không phân biệt chính trị, màu da, hoạt động thu hút ĐTNN tại Việt Nam từ năm 1986 đến nay đF đạt được những kết quả nhất định. ĐTNN đF góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết một số vấn đề bức xúc của xF hội. Tuy nhiên, so với các nước đang phát triển trong khu vực, ĐTNN vào Việt Nam còn chưa được là bao như số lượng chưa nhiều, quy mô dự án còn nhỏ, công nghệ đưa vào chưa thực sự là công nghệ cao. Vấn đề đặt ra là tại sao lại có tình hình như vậy? Các nguyên nhân tạo ra tình trạng đó gồm nguyên nhân chủ quan và khách quan như: 8 luật pháp, chính sách về ĐTNN; môi trường đầu tư; sự ổn định hay bất ổn về kinh tế, chính trị, xF hội; các yếu tố thuộc về cơ sở hạtầng; trình độ của đội ngũ lao động; những vấn đề thuộc về thủ tục hành chính. Trung Quốc là nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông” với Việt Nam, có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về địa lý tự nhiên, về phong tục, tập quán, văn hoá, chế độ chính trị, xF hội và đều có lý tưởng chung là xây dựng đất nước tiến lên Chủ nghĩa XF hội. Vì vậy, nghiên cứu những chính sách thu hút vốn ĐTNN mà Trung Quốc đF và đang thực hiện, cùng những thành công và hạn chế của Trung Quốc trong lĩnh vực này có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với các nước đang phát triển nói chung vàViệt Nam nói riêng. Từ đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu và vậndụng một cách phù hợp trong việc tiếp tục hoàn thiện chính sách thu hút vốn ĐTNN ở Việt Nam. Thích ứng với yêu cầu đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc và khả năng vận dụng tại Việt nam” làm đề tài Luận án Tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế (Kinh tế đối ngoại).

pdf210 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc và khả năng vận dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu liên quan