Từkhi thành lập đến nay, các khu công nghiệp và khu chếxuất (sau đây gọi chung
là khu công nghiệp [18] – KCN) thành phốHồChí Minh (Tp. HCM) đã đạt được những
thành tựu nhất định, biến những vùng đất nông nghiệp nghèo, lạc hậu thành những khu
sản xuất công nghiệp tập trung năng động, những khu đô thịmới sầm uất, đời sống cưdân
ngày càng được cải thiện, giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, tạo ra hàng tỉ
USD kim ngạch xuất khẩu, thực hiện nghĩa vụnộp ngân sách nhà nước hàng ngàn tỉ
đồng, đã góp phần đáng kểvào công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa (CNH-HĐH) và
sựnghiệp phát triển kinh tế-xã hội của thành phố.
Tuy nhiên, việc thu hút đầu tưvào các KCN Tp. HCM đã bộc lộnhiều hạn chế.
Tính đến nay, Ban quản lý các KCN và KCX Tp. HCM (HEPZA) đang quản lý 3 KCX và
13 KCN với tổng diện tích là 2.354 ha, hầu hết các khu này đều có tỷlệ đất cho thuê từ
75-100% trên tổng diện tích đất cho thuê. Cho nên, quỹ đất sẵn sàng dành cho phát triển
công nghiệp không còn nhiều. Đa sốcác dựán đầu tưcó quy mô nhỏ; thâm dụng lao
động; trình độcông nghệthấp; hiệu quảsửdụng đất công nghiệp chưa cao; nguồn lao
động giản đơn thiếu nghiêm trọng, phải tuyển lao động từcác tỉnh khác, tạo nhiều áp lực
cho thành phố. Nhưng hiện nay, hầu hết ởcác tỉnh đều thành lập các KCN và thu hút lao
động tại địa phương đó, nên các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM không còn tuyển
được nhiều lao động từcác tỉnh. Hơn nữa, các doanh nghiệp đầu tưvào KCN không còn
được hưởng ưu đãi vềthuếthu nhập doanh nghiệp (trừcác doanh nghiệp đầu tưvào các
dựán công nghệcao). Từ đó cho thấy, các doanh nghiệp trong KCN đang phải đối mặt
với rất nhiều khó khăn.
Trước bối cảnh thếgiới đang lâm vào tình trạng bất ổn vềkinh tếvà chính trị ở
một sốquốc gia và khu vực, sựbiến đổi khí hậu của trái đất ngày càng nghiêm trọng do
tác động của ô nhiễm môi trường đã làm cho nền kinh tếViệt Nam cũng bị ảnh hưởng
không nhỏ. Lãi suất cho vay cao (có lúc hơn 25%/năm trong năm 2011) khiến cho doanh
nghiệp không thểtiếp cận được nguồn vốn vay phục vụcho hoạt động sản xuất kinh
doanh; lạm phát tăng cao (năm 2011 là 18,13%);giá vàng trong nước biến động mạnh và
cao hơn cảthếgiới; tiền đồng mất giá từ đó đã đẩy giá các yếu tố đầu vào tăng lên rất
cao, làm cho các doanh nghiệp trong KCN gặp nhiều khó khăn, thậm chí có rất nhiều
doanh nghiệp đã ngưng hoạt động và giải thể.
182 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1870 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh phát triển đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 -
MỞ ĐẦU
1- Sự cần thiết của đề tài
Từ khi thành lập đến nay, các khu công nghiệp và khu chế xuất (sau đây gọi chung
là khu công nghiệp [18] – KCN) thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) đã đạt được những
thành tựu nhất định, biến những vùng đất nông nghiệp nghèo, lạc hậu thành những khu
sản xuất công nghiệp tập trung năng động, những khu đô thị mới sầm uất, đời sống cư dân
ngày càng được cải thiện, giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, tạo ra hàng tỉ
USD kim ngạch xuất khẩu, thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước hàng ngàn tỉ
đồng, đã góp phần đáng kể vào công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa (CNH-HĐH) và
sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của thành phố.
Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư vào các KCN Tp. HCM đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Tính đến nay, Ban quản lý các KCN và KCX Tp. HCM (HEPZA) đang quản lý 3 KCX và
13 KCN với tổng diện tích là 2.354 ha, hầu hết các khu này đều có tỷ lệ đất cho thuê từ
75-100% trên tổng diện tích đất cho thuê. Cho nên, quỹ đất sẵn sàng dành cho phát triển
công nghiệp không còn nhiều. Đa số các dự án đầu tư có quy mô nhỏ; thâm dụng lao
động; trình độ công nghệ thấp; hiệu quả sử dụng đất công nghiệp chưa cao; nguồn lao
động giản đơn thiếu nghiêm trọng, phải tuyển lao động từ các tỉnh khác, tạo nhiều áp lực
cho thành phố. Nhưng hiện nay, hầu hết ở các tỉnh đều thành lập các KCN và thu hút lao
động tại địa phương đó, nên các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM không còn tuyển
được nhiều lao động từ các tỉnh. Hơn nữa, các doanh nghiệp đầu tư vào KCN không còn
được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (trừ các doanh nghiệp đầu tư vào các
dự án công nghệ cao). Từ đó cho thấy, các doanh nghiệp trong KCN đang phải đối mặt
với rất nhiều khó khăn.
Trước bối cảnh thế giới đang lâm vào tình trạng bất ổn về kinh tế và chính trị ở
một số quốc gia và khu vực, sự biến đổi khí hậu của trái đất ngày càng nghiêm trọng do
tác động của ô nhiễm môi trường đã làm cho nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng
không nhỏ. Lãi suất cho vay cao (có lúc hơn 25%/năm trong năm 2011) khiến cho doanh
nghiệp không thể tiếp cận được nguồn vốn vay phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
- 2 -
doanh; lạm phát tăng cao (năm 2011 là 18,13%); giá vàng trong nước biến động mạnh và
cao hơn cả thế giới; tiền đồng mất giá… từ đó đã đẩy giá các yếu tố đầu vào tăng lên rất
cao, làm cho các doanh nghiệp trong KCN gặp nhiều khó khăn, thậm chí có rất nhiều
doanh nghiệp đã ngưng hoạt động và giải thể.
Từ những đặc điểm tình hình nêu trên, cùng với thành phố đóng vai trò đầu tàu “đi
trước một bước” hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại hóa vào năm 2020, việc nhà nước cần phải có chính sách hỗ
trợ nhằm tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, đủ sức hấp dẫn về lợi ích kinh tế để kích
thích các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM phát triển là một nhu cầu cấp bách, mang
tính thực tiễn to lớn. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp
trong khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh phát triển đến năm 2020” nghiên cứu cho
Luận án Tiến sĩ.
2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
2.1- Một số công trình, đề tài nghiên cứu tiếp cận trên phương diện khu công
nghiệp tại Việt Nam có liên quan đến đề tài
Tại Việt Nam, đã có một số công trình, đề tài nghiên cứu về khu chế xuất, khu
công nghiệp nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về giải pháp hỗ trợ cho các doanh
nghiệp trong các KCN Tp. HCM phát triển, cụ thể:
- Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của VS.TS. Nguyễn Chơn Trung và PGS.TS. Trương Giang Long (Đồng chủ
biên) (2004), nghiên cứu đã trình bày một số vấn đề về sự hình thành và phát triển các
KCN, KCX; phân tích thực trạng phát triển KCN, KCX ở các tỉnh phía Nam; từ đó đưa ra
những giải pháp phát triển các KCN, KCX.
- Nghiên cứu những giải pháp phát triển các KCN ở Việt Nam trong những điều
kiện hiện nay của GS.TS. Võ Thanh Thu (Chủ nhiệm đề tài) (2005), đã tổng kết được
thực tiễn phát triển và quản lý KCN giai đoạn 1991 – 2003; đánh giá các tác động của các
KCN đối với công cuộc CNH-HĐH đất nước; đánh giá mô hình hoạt động và tính hiệu
quả hoạt động của các KCN. Từ đó nghiên cứu đã đề xuất giải pháp phát triển bền vững
KCN trong quá trình CNH-HĐH và tăng cường hội nhập quốc tế của Việt Nam.
- 3 -
- Những giải pháp nhằm phát triển các khu chế xuất và khu công nghiệp Tp. HCM
đến năm 2010 – Luận án tiến sĩ của Nguyễn Quyết Chiến (2003); Phát triển các khu công
nghiệp của tỉnh Long An đến năm 2010 – Luận án tiến sĩ của Huỳnh Thanh Tú (2005), và
Phát triển khu công nghiệp của thành phố Cần Thơ đến năm 2020 – Luận án tiến sĩ của
Huỳnh Thanh Nhã (2008), nội dung chủ yếu của các nghiên cứu này là tìm hiểu kinh
nghiệm phát triển khu công nghiệp; thực trạng phát triển các KCN của tỉnh, thành phố,
cũng như định hướng phát triển trong tương lai; từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển
KCN của tỉnh, thành phố.
- Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong Khu công nghiệp tình hình tuyển dụng lao
động giai đoạn 2010-2015 – Bài báo của Thanh Huyền đăng tại website Ban quản lý các
Khu công nghiệp Vĩnh Phúc vào Thứ ba, 20-12-2011, nội dung chủ yếu của nghiên cứu này
là phân tích thực trạng và nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trong KCN của tỉnh
Vĩnh Phúc, từ đó đưa ra giải pháp nhằm đáp ứng nguồn nhân lực và hỗ trợ doanh nghiệp
tuyển dụng được lao động đủ về số lượng, đáp ứng về chất lượng.
- Chính sách cụm công nghiệp và phát triển khu vực trong giai đoạn toàn cầu hóa-
cách tiếp cận phương Đông và phương Tây và sự khác biệt của chúng (Industrial cluster
policies and regional development in the age of globalisation - Eastern and Western
approaches and their differences) – Bài báo của MITSUI Itsutomo (Đại học Quốc gia
Yokohama) (2003) đăng trên 30th ISBC in Singapore [
MTI/Regional03.pdf]. Bài viết đã nghiên cứu, so sánh sự phát triển của chính sách dựa trên
ý tưởng của mô hình cụm công nghiệp với những ảnh hưởng của chúng đến nền kinh tế khu
vực và các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong một số khu vực ở Nhật, Châu Âu.
2.2- Một số công trình, đề tài nghiên cứu tiếp cận trên phương diện phát triển
doanh nghiệp có liên quan đến đề tài
- Chính sách tài chính hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc
doanh vùng đồng bằng sông Cửu Long – Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thiện Phong (2007),
nội dung nghiên cứu chủ yếu là phân tích thực trạng các loại hình doanh nghiệp nhỏ và
vừa ngoài quốc doanh vùng đồng bằng sông Cửu Long; hoàn thiện các chính sách tài
chính, các chính sách có liên quan và kiến nghị các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
- 4 -
vừa ngoài quốc doanh trong vùng khắc phục khó khăn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, phát triển một cách bền vững.
- Giải pháp nhằm phát triển các doanh nghiệp da-giày trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
đến năm 2015 – Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Tân (2009), nội dung chủ yếu là tìm
hiểu kinh nghiệm phát triển lĩnh vực da – giày của một số nước và địa phương có lĩnh vực
da – giày nổi tiếng; đánh giá rõ thực trạng của các doanh nghiệp da – giày trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai; từ đó xây dựng các giải pháp nhằm phát triển các doanh nghiệp da – giày
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- Phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh nông
sản khu vực phía Nam – Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thế Phong (2010), nội dung chủ yếu
làm rõ cơ sở lý luận về phát triển nguồn nhân lực trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và kinh
nghiệm các nước về phát triển nguồn nhân lực; đánh giá thực trạng nguồn nhân lực trong
các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh nông sản; từ đó đề xuất các giải pháp phát triển
nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh nông sản.
Từ kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học kể trên, nhận thấy rằng cho đến
nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về phát triển doanh nghiệp và giải pháp
hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM phát triển. Tuy nhiên, các công trình
khoa học kể trên là một nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn,
giúp tác giả rất nhiều trong quá trình nghiên cứu.
Luận án sẽ làm rõ cơ sở khoa học về một số tiêu chí đánh giá sự phát triển của các
doanh nghiệp trong KCN, thông qua đó phân tích thực trạng phát triển doanh nghiệp KCN
Tp. HCM và các chính sách, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp KCN từ đó xây dựng một số
giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM phát triển đến năm 2020.
3- Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và tiêu chí đánh giá sự phát triển của các doanh
nghiệp trong KCN.
- Phân tích thực trạng phát triển của các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM và các
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
- 5 -
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong KCN
Tp. HCM.
- Đề xuất một số giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM phát
triển đến năm 2020 phù hợp với yêu cầu và tình hình hiện nay.
4- Phương pháp nghiên cứu
4.1- Dữ liệu nghiên cứu:
Nguồn dữ liệu: đề tài sử dụng nguồn đa dữ liệu
- Dữ liệu thứ cấp: các thông tin được thu thập từ báo cáo của Ban quản lý HEPZA
qua các năm (từ năm 2002 đến năm 2011), Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ
sách, báo, tạp chí chuyên ngành, internet và các thông tin từ các nghiên cứu có liên quan.
- Dữ liệu sơ cấp: các thông tin được thu thập thông qua bảng câu hỏi khảo sát các
doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM.
4.2- Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp phân tích định tính
và định lượng.
- Phương pháp định tính:
+ Luận án sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn dựa trên những
quy luật phát triển khách quan về kinh tế - xã hội, cùng với những quan điểm, chính sách
của Nhà nước để hệ thống hoá và phát triển cơ sở lý luận, xác định một số chỉ tiêu đánh
giá phát triển doanh nghiệp trong các khu công nghiệp.
+ Phương pháp nghiên cứu tại bàn để thu thập thông tin thứ cấp; thống kê, mô tả,
tổng hợp, phân tích số liệu và so sánh nhằm rút ra những nét nổi bật, những đặc điểm qua
các năm (từ năm 2002 đến năm 2011) để nhận định, đánh giá và rút ra nguyên nhân ảnh
hưởng đến phát triển doanh nghiệp trong các KCN Tp. HCM.
- Phương pháp định lượng: điều tra trực tiếp bằng bảng câu hỏi khảo sát 163 doanh
nghiệp (bảng câu hỏi được phát đến 200 doanh nghiệp, có 163 doanh nghiệp trả lời hợp
lệ) trong các KCN Tp. HCM, dùng phần mềm SPSS để xử lý dữ liệu (phân tích nhân tố,
phân tích Cronbach alpha, và phân tích hồi quy) để tìm những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM.
- 6 -
5- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án:
- Đối tượng nghiên cứu đề tài là sự phát triển và chính sách hỗ trợ phát triển các
doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM.
- Phạm vi nghiên cứu được giới hạn như sau:
+ Về không gian: nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi các doanh nghiệp trong
KCN Tp. HCM.
+ Về thời gian: thời gian khảo sát và thu thập số liệu từ năm 2002 đến năm 2011.
6- Điểm mới và đóng góp của luận án:
- Xác định được các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các doanh
nghiệp trong KCN Tp. HCM. Những yếu tố này có thể làm cơ sở nghiên cứu cho những
đề tài có liên quan đến KCN, hay doanh nghiệp trong KCN nói chung.
- Luận án đã đóng góp vào thực tiễn cho việc phát triển các doanh nghiệp trong
KCN Tp. HCM thông qua đề xuất một số giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong
KCN Tp. HCM phát triển đến năm 2020 phù hợp với yêu cầu và tình hình hiện nay.
7- Khung nghiên cứu của luận án
Dữ liệu thứ cấp Thực trạng phát triển DN
và những nhân tố ảnh
hưởng đến sự phát triển
DN trong các KCN Tp.
HCM
Dữ liệu sơ cấp
LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DN TRONG CÁC KCN
VÀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HỖ TRỢ CHO CÁC DN TRONG CÁC KCN TP. HCM PHÁT TRIỂN
ĐẾN NĂM 2020
Từ báo cáo của
HEPZA, Tổng cục
Thống kê, Bộ
KH&ĐT, từ sách,
báo, tạp chí chuyên
ngành, internet
Thông qua
bảng câu hỏi
khảo sát các
DN trong
KCN Tp.
HCM
Thuận lợi Khó khăn
Một số chỉ tiêu đánh
giá thực trạng phát triển
của DN
Những yếu tố tác động của
môi trường bên ngoài
Đánh giá chung về
kết quả đạt được
của các chính sách
hỗ trợ
Những yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến
sự phát triển của DN
trong KCN Tp.
HCM
- 7 -
8- Kết cấu của luận án:
Luận án được kết cấu gồm:
- Mở đầu
- Chương 1: Cơ sở khoa học về phát triển doanh nghiệp trong các KCN và chính
sách hỗ trợ để phát triển doanh nghiệp
- Chương 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp và các chính sách hỗ trợ cho các
doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM
- Chương 3: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong
KCN Tp. HCM
- Chương 4: Giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN Tp. HCM phát
triển đến năm 2020
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo
- 8 -
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÀ
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỂ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
1.1- Các khái niệm
1.1.1- Khái niệm về khu công nghiệp và doanh nghiệp trong khu công nghiệp
1.1.1.1- Khái niệm về khu công nghiệp
Theo khoản 20 và 21 Điều 3 của luật Đầu tư ngày 29/11/2005 (có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/7/2006) và theo khoản 1 và 2 Điều 2 của Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của
Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế (ngày 14/3/2008) thì:
- Khu công nghiệp (KCN) là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều
kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
- Khu chế xuất (KCX) là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định,
được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công nghiệp quy định
tại Nghị định này.
Khu công nghiệp, khu chế xuất được gọi chung là khu công nghiệp (KCN), trừ
trường hợp quy định cụ thể [18].
Trong luận án này, tác giả thống nhất từ dùng chung là “khu công nghiệp” nhằm
đề cập đối tượng nghiên cứu là doanh nghiệp trong các khu công nghiệp và khu chế xuất.
1.1.1.2- Khái niệm và đặc điểm doanh nghiệp trong KCN
Doanh nghiệp trong KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong
KCN, gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ. Như vậy, các doanh nghiệp
trong KCN có những đặc điểm chung cơ bản như sau:
- Các doanh nghiệp trong từng KCN có thể hoạt động đầu tư cùng một số ngành
nghề theo quy hoạch ngành nghề đầu tư cho mỗi KCN do Chính phủ quy định.
- 9 -
- Cơ quan quản lý nhà nước các doanh nghiệp trong KCN là Ban quản lý KCN
tỉnh-thành phố. Ban quản lý cung cấp dịch vụ một cửa, nên việc xin Giấy phép đầu tư
giảm được nhiều thủ tục phiền phức. Đối với các công việc về thủ tục đầu tư, thành lập
doanh nghiệp, xây dựng nhà xưởng, đưa doanh nghiệp vào sản xuất và các hoạt động
khác của doanh nghiệp thì nhà đầu tư chỉ cần gặp Ban quản lý KCN tỉnh-thành phố là có
thể hoàn tất trong một thời gian rất ngắn cho việc kiểm tra hồ sơ và cấp Giấy phép đầu tư.
- Trong mỗi KCN đều có đội ngũ bảo vệ riêng canh gác ngày đêm, có đội Phòng
cháy chữa cháy riêng để phục vụ cho các doanh nghiệp trong KCN.
- Các doanh nghiệp trong KCN đều được hưởng những tiện ích về cơ sở hạ tầng
chung như: Hệ thống đường trong khu hoàn chỉnh, đạt tiêu chuẩn quy định; Điện, nước
đầy đủ. Có nhà máy điện riêng cỡ trung hoặc trạm biến thế, hệ thống cấp thoát nước, bể
nước, trạm cấp nước dự phòng riêng…; Đất quy hoạch cho phát triển doanh nghiệp trong
KCN là có sẵn. Ngoài ra, các doanh nghiệp trong KCN còn được hưởng những tiện ích
công cộng như Trạm y tế, Đội vệ sinh cây xanh, Trung tâm hoạt động công nhân, xe chở
rác, Trạm xử lý nước thải, hệ thống chiếu sáng toàn khu…
1.1.2- Khái niệm về phát triển:
Theo quan điểm siêu hình1: Phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về lượng,
không có sự thay đổi về chất của sự vật, đồng thời phát triển là quá trình tiến lên liên tục,
không trải qua những bước quanh co phức tạp. Phép biện chứng duy vật cho rằng: Phát
triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện của sự vật. Khái niệm “phát triển” và khái niệm “vận động” có
sự khác nhau: Vận động là mọi biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi
lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc hậu, còn phát triển là sự biến đổi về chất theo hướng
hoàn thiện của sự vật.
Phát triển là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự
vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao
nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật [12].
Khi xét “phát triển” trong lĩnh vực kinh tế, thì “Phát triển là sự tăng tiến về mọi
mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Nói đến phát triển kinh tế là nói cả tăng
1 Trần Thị Lan (2009), Bài soạn Phép biện chứng duy vật, []
- 10 -
thêm về quy mô sản lượng của nền kinh tế và cả đến sự tiến bộ xã hội. Phát triển là quy
luật tiến hoá của nền kinh tế từ trình độ phát triển thấp lên trình độ phát triển cao hơn”
[59]. Theo quan điểm trong giáo trình kinh tế phát triển của trường Đại học Kinh tế Quốc
dân Hà Nội: “Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi
mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó, bao gồm cả sự tăng lên về quy
mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội”.
Ngày nay, quan niệm về phát triển còn được mở rộng là phát triển phải gắn với hoà
bình, độc lập và ổn định chính trị. Phát triển phải bền vững và bảo vệ môi trường sống,
phát triển là để phục vụ con người, lấy con người làm trung tâm.
Nếu đề cập đến khái niệm phát triển chỉ bằng một định nghĩa thì rất khó có thể
diễn đạt hết ý nghĩa, ta có thể diễn giải khái niệm về phát triển cụ thể như sau:
Sự phát triển bao gồm cả sự tăng lên về lượng (tăng trưởng), sự biến đổi cơ cấu,
trình độ kinh tế và của đời sống xã hội;
Sự phát triển là quá trình tiến hoá theo thời gian, do các nhân tố nội tại quyết định;
Kết quả phát triển là một quá trình vận động khách quan, còn mục tiêu đề ra là để
tiếp cận tới các kết quả đó;
Con người chính là trung tâm của sự phát triển. Con người vừa là động lực vừa là
đối tượng của quá trình phát triển;
Phát triển phải gắn với sự bền vững, do đó phải bao gồm các yếu tố hoà bình, độc
lập, ổn định chính trị, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, các hiện
tượng hay quá trình khác, của nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể, sự thay đổi của các
yếu tố tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật.
Phát triển là một khái niệm chung nhất về sự chuyển biến của sự vật từ trạng thái
thấp đến trạng thái cao hơn, đó là một khái niệm mang tính định tính. Do vậy, sẽ rất khó
có một tiêu chí định lượng chính xác và thống nhất để đo lường sự phát triển. Trong
nghiên cứu này, chúng ta tạm quy ước khi nói đến sự phát triển là nói đến các chỉ tiêu
nêu trên.
- 11 -
1.1.3- Quan điểm về phát triển KCN Việt Nam:
Phát triển là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế-
xã hội của đất nước. Ở Việt Nam, để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước như Nghị
quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra và thực hiện cam kết quốc tế, Chính
phủ đã ban hành Định hướng chiến lược phát triển. Mục tiêu phát triển đất nước chỉ có
thể được thực hiện trên cơ sở thực hiện chiến lược phát triển trong từng ngành, từng lĩnh
vực, từng địa phương, trong đó có phát triển các KCN.
Theo quan điểm về phát triển nói chung, có chú ý đến những yếu tố đặc thù của các
KCN thì cần phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằ