Luận án Hoàn thiện cơ chế thu bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một bộ phận quan trọng của chính sách an sinh xã hội của mọi quốc gia nhằm bảo ñảm về thu nhập cho người lao ñộng trong những trường hợp bị ốm ñau, thai sản, tai nạnlao ñộng và bệnh nghề nghiệp, hưu trí, chết Từ ñó góp phần ổn ñịnh ñời sống không chỉ cho bản thân người lao ñộng, gia ñình họ mà còn góp phần ñảm bảo an sinh xã hội. BHXH ở Việt Nam ñược tổ chức thành một hệ thống ñộclập bắt ñầu từ năm 1995. Qua gần 20 năm hoạt ñộng, hệ thống BHXH ñã có rất nhiều ñóng góp cho xã hội. Kết quả này thể hiện qua sự mở rộngdiện bao phủ của hệ thống BHXH, sự lớn mạnh của quỹ BHXH ñã góp phần làm ña dạng nguồn vốn ñầu tư trong xã hội, ñã thể hiện ñược vai trò của BHXH ñối với toàn bộ nền kinh tế - xã hội. So với dân số Việt Nam là hơn 85,7 triệu người (trong ñó có ñến hơn 45 triệu người trong ñộ tuổi lao ñộng) thì dường như những kết quả mà hệ thống BHXH Việt Nam ñạt ñược ở trên còn quá khiêm tốn. ðiều ñó ñược thể hiện qua: - ðối tượng tham gia BHXH mặc dù ñã ñược mở rộng với mức tăng năm sau cao hơn năm trước, tuy nhiên so với tiềm năng còn rất hạn chế, tức là mức ñộ bao phủ của hệ thống BHXH ñến người dân nói chung, lực lượng lao ñộng nói riêng còn thấp (năm 2008 với hơn 8,527 triệu người chiếm hơn 18,8% lực lượng lao ñộng); - Quy mô của quỹ BHXH mặc dù luôn có sự gia tăng với xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực cũng như với tiềm năng. Sở dĩ quy mô quỹ BHXH còn nhỏ là bởi vì nguồn thu BHXH còn nhiều hạn chế trong ñó nguồn chủyếu là thu từ ñối 2 tượng tham gia BHXH chưa triệt ñể (Tỷ lệ thực tế tham gia BHXH so với ñối tượng bắt buộc phải tham gia năm 2008 mới ñạt gần 70%). - Tỷ lệ nợ ñọng BHXH còn lớn (năm 2008, tỷ lệ nợ ñọng BHXH so với số thực tế thu ñược lên ñến 6,9%) làm ảnh hưởng ñếnquyền lợi của người lao ñộng cũng như ảnh hưởng ñến quy mô của quỹ BHXH. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn ñến tình trạng trên, một trong những nguyên nhân ñược ñề cập nhiều ñó là cơ chế thu BHXHchưa thực sự phù hợp. Trong khi ñó, qua nghiên cứu thực tiễn tổ chức, quản lý hệ thống BHXH của các nước khác cho thấy sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, ñồng bộ giữa các bộ phận trong hệ thống thu BHXH ñã tạo thành một cơ chế thu BHXH thực sự hiệu quả và ñó là tiền ñề cho việc nâng caohiệu quả hoạt ñộng của hệ thống BHXH nói chung, hoạt ñộng thu BHXH nói riêng. Từ những lý do trên, ñề tài xuất phát từ nhu cầu bức thiết của hoạt ñộng Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, ñặc biệt trong bối cảnhtừ kết quả tính toán của Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức Lao ñộng quốc tế (ILO) dự báo cho thấy, ñến năm 2035 quỹ hưu trí và tử tuất ở Việt Nam sẽ mất cân ñối nếu không ñiều chỉnh hợp lý về cơ chế thu BHXH. Chính vì thế việc nghiên cứu ñề tài: “Hoàn thiện cơ chế thu bảo hiểm xã hội ở Việt Nam”nhằm ñưa ra những giải pháp phù hợp từ ñó giúp cân ñối quỹ BHXH trong dài hạn là cần thiết hơn bao giờ hết.