Hệ thống ngân hàng luôn đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế và thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Do vậy, việc đảm bảo sự ổn định và phát triển an toàn cho cả hệ thống ngân hàng là một nhiệm vụ quan trọng của Ngân hàng Trung ương và chính phủ các quốc gia trên thế giới. Nhiều biến động trên thị trường tiền tệ, cụ thể là các cuộc suy thoái kinh tế trong 50 năm qua và gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2010 đều bắt nguồn từ hệ thống tài chính. Thực trạng này chỉ ra rằng hệ thống ngân hàng toàn cầu tích tụ những yếu tố dễ bị tổn thương, trong khi các kế hoạch dự phòng của các tổ chức tài chính, trong đó có các ngân hàng thương mại tỏ ra kém hiệu quả và không khả thi. Do đó, một điều kiện bắt buộc trong quản trị các định chế tài chính hiện nay đó là phải tích hợp các công cụ kiểm tra, phân tích và dự báo các loại hình rủi ro đặc trưng của hệ thống tài chính ngân hàng. Hiện nay, có rất nhiều kỹ thuật phân tích dự báo rủi ro đã được phát triển và áp dụng bởi Ngân hàng Trung ương (NHTW) và các cơ quan giám sát tài chính của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó phải kể đến công cụ đo lường khả năng chịu đựng cú sốc rủi ro là Stress Test (ST) do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) xây dụng và phát triển.
43 trang |
Chia sẻ: Việt Cường | Ngày: 11/04/2025 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu khả năng vượt qua căng thẳng thanh khoản và tín dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam - Lê Thị Thanh Huyền, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------------------------------
LÊ THỊ THANH HUYỀN
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG VƯỢT QUA CĂNG
THẲNG THANH KHOẢN VÀ TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------------------------------
LÊ THỊ THANH HUYỀN
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG VƯỢT QUA CĂNG
THẲNG THANH KHOẢN VÀ TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng
MÃ SỐ: 9 34 02 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC TRUNG
TS. PHẠM THỊ THANH XUÂN
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021 1
1 CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Lý do nghiên cứu
Hệ thống ngân hàng luôn đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền
kinh tế và thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Do vậy, việc đảm bảo sự ổn
định và phát triển an toàn cho cả hệ thống ngân hàng là một nhiệm vụ quan trọng của Ngân
hàng Trung ương và chính phủ các quốc gia trên thế giới. Nhiều biến động trên thị trường
tiền tệ, cụ thể là các cuộc suy thoái kinh tế trong 50 năm qua và gần đây nhất là cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2010 đều bắt nguồn từ hệ thống tài chính. Thực trạng
này chỉ ra rằng hệ thống ngân hàng toàn cầu tích tụ những yếu tố dễ bị tổn thương, trong khi
các kế hoạch dự phòng của các tổ chức tài chính, trong đó có các ngân hàng thương mại tỏ ra
kém hiệu quả và không khả thi. Do đó, một điều kiện bắt buộc trong quản trị các định chế tài
chính hiện nay đó là phải tích hợp các công cụ kiểm tra, phân tích và dự báo các loại hình rủi
ro đặc trưng của hệ thống tài chính ngân hàng. Hiện nay, có rất nhiều kỹ thuật phân tích dự
báo rủi ro đã được phát triển và áp dụng bởi Ngân hàng Trung ương (NHTW) và các cơ quan
giám sát tài chính của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó phải kể đến công cụ đo lường khả
năng chịu đựng cú sốc rủi ro là Stress Test (ST) do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) xây dụng và
phát triển. Công cụ kiểm tra và dự báo rủi ro cho hệ thống ngân hàng thương mại này được
thường xuyên nhắc đến trong các hội thảo, diễn đàn về quản lý rủi ro ngân hàng, và được các
NHTW và cơ quan giám sát tài chính ban hành các quy định cụ thể về ST, đồng thời yêu cầu
các ngân hàng thực hiện và báo cáo kết quả (theo phương pháp botton-up). Bên cạnh đó, trên
cơ sở các số liệu của mình, cơ quan quản lý cũng tự thực hiện đánh giá sức chịu đựng ở cấp
độ hệ thống hoặc theo từng nhóm ngân hàng (phương pháp top-down) để xác định mức độ
tổn thương và phân loại các ngân hàng theo mức độ lành mạnh. Công cụ ST là tập hợp các
kỹ thuật và phương pháp được sử dụng để đánh giá khả năng chịu đựng rủi ro hay mức độ
tổn thương của các tổ chức tài chính, ngân hàng trước những sự kiện, hoàn cảnh rất bất lợi.
Đây là một phương pháp được sử dụng để kiểm nghiệm sức chịu đựng của các tổ chức tín
dụng (TCTD) đối với các cú sốc tài chính của nền kinh tế. Thực tế ở Hoa kỳ, JP Morgan
Chase là một trong số những ngân hàng lớn đã áp dụng kỹ thuật đánh giả khả năng chịu đựng
cú sốc rủi ro từ những năm 1990, và thực hiện việc kiểm tra thường xuyên (hằng ngày/hằng
tuần đối với những rủi ro từ thị trường) để phục vụ cho mục đích quản trị rủi ro của các danh
mục hiện có, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch kinh doanh. IMF cũng tiến hành kiểm tra rủi ro 2
của từng ngân hàng thương mại để đánh giá những rủi ro trên phạm vi toàn hệ thống, và
thường xuyên công bố trong các Báo cáo ổn định tài chính đều đặn nửa năm hoặc hằng năm
theo “Chương trình đánh giá khu vực tài chính (FSAP)”.
Hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam đang từng bước mở cửa sâu rộng với hệ thống
tài chính ngân hàng khu vực và trên thế giới, phát triển nhanh theo cả chiều sâu và chiều rộng.
Sự phát triển đa dạng các công cụ tài chính và hoạt động ngân hàng cũng đưa các ngân hàng
đối mặt với nhiều rủi ro khác nhau từ rủi ro tỷ giá, lãi suất, thanh khoản cho đến RRTD và
nguy cơ gia tăng nợ xấu. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các ngân hàng thương mại (NHTM) tại
Việt Nam là phát triển và áp dụng những kỹ thuật quản trị rủi ro tiên tiến để nâng cao khả
năng phát triển bền vững của mình và ứng phó trước những tình huống bất lợi trong tương
lai. Tuy được nhiều người quan tâm, nhưng mức độ hiểu biết và áp dụng phương pháp ST ở
ngay đơn vị quản lý cũng như ở các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nội địa ở Việt Nam
còn rất nhiều hạn chế. Về phía Ngân hàng Nhà nước (NHNN), việc nghiên cứu và ứng dụng
ST trong hoạt động quản lý hệ thống ngân hàng là một yêu cầu tất yếu. Trong thời gian tới,
Việt Nam sẽ cho phép Ngân hàng Thế giới (WB) và IMF thực hiện các chương trình FSAP.
Do vậy, việc thành lập một bộ phận nghiên cứu và phối hợp thực hiện với WB và IMF về ST
là nhiệm vụ rất quan trọng. Ngoài ra, với định hướng thực hiện chuẩn Basel II, tiến đến Basel
III đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, ST là một nội dung không thể thiếu.
Trong những năm vừa qua, những biến động tiêu cực của nền kinh tế thế giới mà căn
nguyên là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và những thay đổi trong quy định đối
với các tổ chức tín dụng theo hướng lành mạnh hóa hoạt động của hệ thống tài chính ngân
hàng mà NHNN ban hành khiến khả năng thanh khoản của các NHTM suy giảm, cá biệt có
một số NHTM đã rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản thường xuyên. Ví dụ như trong giai
đoạn 2010 - 2011, ba ngân hàng thương mại bao gồm Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài
Gòn (Saigon Commercial Bank, SCB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Tín Nghĩa
(TinNghiaBank, TNB) và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đệ Nhất (Ficombank, FCB) gặp
khó khăn về thanh khoản vì đã lạm dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Thêm nữa, vào
tháng 8/2012, Ngân hàng Thương mại Cổ phần ACB trải qua sự cố về thanh khoản xuất phát
từ tin đồn liên quan đến vị trí lãnh đạo của ngân hàng, cụ thể chỉ trong vòng 2 ngày làm việc
khách hàng đã rút hơn 8.000 tỷ đồng khỏi ACB chi nhánh Hồ Chí Minh. Tình trạng thiếu hụt
thanh khoản không chỉ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của bản thân
ngân hàng mà còn tác động đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế nói 3
chung. Do đó, thay vì đợi đến khi ngân hàng chịu tổn thất do gặp rủi ro thanh khoản (RRTK)
thì ngân hàng cần có những ước tính cụ thể về tình trạng thanh khoản của ngân hàng mình,
từ đó có kế hoạch nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán để chống chọi tốt hơn trước
những cú sốc từ bên ngoài đó. Bên cạnh đó, hệ thống NHTM Việt Nam hiện có tốc độ tăng
trưởng huy động thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng tín dụng, do đó các ngân hàng luôn phải
đối mặt với áp lực lớn về thanh khoản. Theo Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2018 của
Tổng cục thống kê Việt Nam, huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 11,5%; tăng trưởng
tín dụng của nền kinh tế tăng 13,3%. Các NHTM đua nhau tăng lãi suất huy động đồng Việt
Nam đối với các kì hạn dài kéo theo lãi suất của các kỳ hạn ngắn (dưới 12 tháng) đều tăng
kịch trần, thực trạng này ảnh hưởng đến tâm lý của các khách hàng doanh nghiệp và cá nhân
đang có nhu cầu vay vốn. Ngoài ra, các thay đổi quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an
toàn trong hoạt động của TCTD, đặc biệt khi lộ trình áp dụng Thông tư 41/2016/TT-NHNN
về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu dựa trện Basel II đang đến gần hơn. Với mục tiêu tăng trưởng
tín dụng cao, huy động gặp khó khăn, nợ xấu chưa giải quyết được tận gốc, hệ thống ngân
hàng vẫn trong giai đoạn tái cấu trúc, đã gây áp lực cho thanh khoản và tín dụng cho hệ thống
ngân hàng Việt Nam. Với những lý do nêu trên, việc ngân hàng thực hiện ST RRTK nhằm
đánh giá đúng khả năng vượt qua các cú sốc rủi ro thanh khoản trên thực tế là hết sức cần
thiết.
Trong giai đoạn từ cuối năm 2019 đến nay, nền kinh tế thế giới nói chung và hệ thống
tài chính ngân hàng nói riêng chịu nhiều tác động nghiêm trọng từ đại dịch Covid-19, và đứng
trước nguy cơ trải qua một cuộc khủng hoảng mới. Dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do
chủng mới của vi rút Corona được phát hiện lần đầu tiên tại thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc,
Trung Quốc, sau đó lan rộng đến 215 quốc gia và vùng lãnh thổ. Theo thông tin công bố trên
trang worldometer.info, tính đến ngày đầu tháng 7 năm 2020, thế giới đã ghi nhận hơn 13
triệu người nhiễm bệnh, con số tử vong hơn 571 nghìn người. Những nền kinh tế lớn như Mỹ,
Nhật Bản, Cộng đồng chung Châu Âu đang phải đối mặt với tình trạng suy thoái kinh tế sâu,
tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ qua. Với tình hình trên, chính phủ các nước đã ban hành nhiều
quy định nghiêm ngặt nhằm hạn chế tiếp xúc, lây nhiễm bệnh trong cộng đồng như đóng của
các trường học, nhà máy, doanh nghiệp sản xuất, các tụ điểm vui chơi, giải trí, tạm ngưng các
đường bay nội địa, quốc tế, Việc giao thương giữa các nước vì vậy mà cũng đứt gãy, hoạt
động kinh tế toàn cầu bị suy giảm, thất nghiệp tăng cao, đe dọa sự ổn định tài chính của nhiều
quốc gia. Trái ngược với khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 - 2008, khủng hoảng lần 4
này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến khu vực doanh nghiệp do gián đoạn trong chuỗi cung
ứng trên toàn thế giới, đặc biệt liên quan đến hàng hóa và linh kiện nhập khẩu (phần lớn đến
từ trung tâm của đại dịch, Trung Quốc), từ đó dẫn đến sự thiếu hụt trong sản xuất, việc sản
xuất đương nhiên sẽ bị chậm lại hoặc thậm chí ngưng trệ. Hiệu ứng gián đoạn có thể thấy rõ
trong các ngành dịch vụ bao gồm du lịch, sự kiện, truyền thông đại chúng, Ngoài ra, tâm
lý lo lắng hoang mang của người tiêu dùng và người lao động sẽ khiến họ hạn chế chi tiêu,
và cuối cùng ảnh hưởng tiêu cực đến doanh thu của các doanh nghiệp. “Cú sốc kinh tế do
Covid-19 có thể nghiêm trọng hơn khủng hoảng tài chính 2008”, đó là dự báo và nhận định
chung của một số nhà kinh tế trong bối cảnh hiện nay. Với vai trò là xương sống của nền kinh
tế, hệ thống ngân hàng ở các quốc gia cũng đang phải gánh chịu những ảnh hưởng nghiêm
trọng của Covid-19. Trên thế giới, hàng loạt ngân hàng của Canada như Scotiabank, Canadian
Imperial Bank of Commerce (CIBC) và Royal Bank of Canada (RBC) đều dự báo nguy cơ
khủng hoảng tài chính là rất lớn. Theo ý kiến của ông Mark Carney – Thống đốc Ngân hàng
Anh cho rằng: “Trọng tâm của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 là nợ xấu và chỉ giới
hạn trong lĩnh vực ngân hàng và kết thúc khi Chính phủ Mỹ cung cấp gói cứu trợ 700 tỷ USD
mua lại khối tài sản thế chấp, còn lần này dịch bệnh là mối nguy đến từ bên ngoài, tác động
lên toàn bộ nền kinh tế”. Trải qua nhiều biến động trên thị trường tiền tệ, cụ thể là từ sau cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 - 2008, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã bộc lộ
nhiều dấu hiệu căng thẳng và tích tụ những yếu tố dễ bị tổn thương, đặc biệt là vấn đề nợ xấu.
Theo TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV vừa có báo cáo
đánh giá sơ bộ tác động của dịch Covid-19 đến kinh tế thế giới và Việt Nam, trong đó có lĩnh
vực tài chính - ngân hàng. Với hệ thống ngân hàng, theo báo cáo, dịch bệnh Covid-19 sẽ tác
động ở 3 khía cạnh quan trọng nhất: (i) cầu tín dụng giảm mạnh do hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp, hộ gia đình bị suy giảm nặng nề, đặc biệt là trong quý I và quý II; (ii) tiềm
ẩn nợ xấu tăng khi các doanh nghiệp, hộ gia đình chịu tác động tiêu cực từ dịch bệnh (như
nguồn cung đầu vào bị gián đoạn, thu hẹp quy mô sản xuất, sa thải nhân viên, thắt chặt thanh
khoản, ), dẫn đến hoạt động sản xuất – kinh doanh bị đình trệ, và mất khả năng thanh toán
gốc và lãi vay cho các ngân hàng có quan hệ tín dụng; (iii) nhu cầu giao dịch qua ngân hàng
số, không dùng tiền mặt gia tăng do dịch bệnh đã thay đổi nhận thức và hành vi của khách
hàng, khiến họ ngại tiếp xúc ở nơi công cộng như các quầy giao dịch tại ngân hàng. Do đó,
việc đo khả năng chịu đựng rủi ro tín dụng (RRTD) là thật sự cần thiết nhất là khi các ngành
nghề bị ảnh hưởng nặng nề như công nghiệp chế biến, chế tạo, sản xuất, thương mại, dịch 5
vụ, đều chiếm tỷ trọng cao trong dư nợ cho vay của toàn hệ thống. Thông qua đó, các ngân
hàng có thể nhận biết và có các biện pháp ứng phó kịp thời trước khủng hoảng của dịch Covid-
19.
Với những lập luận và lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Nghiên cứu khả năng
vượt qua căng thẳng thanh khoản và tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam”.
Luận án tập trung nghiên cứu cơ sở lý thuyết và áp dụng thực hiện ST RRTK và RRTD cho
các NHTM trong hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm cung cấp đánh giá toàn diện cho các
ngân hàng trong việc hoạch định chính sách và kế hoạch ứng phó với loại hình RRTK và tín
dụng trong thực tế.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của luận án là đánh giá khả năng chịu đựng cú sốc RRTK và RRTD
của một số NHTM trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, và dựa trên kết quả nghiên cứu để đề
xuất những giải pháp duy trì khả năng thanh khoản và vượt qua các cú sốc tín dụng cho các
NHTM, cũng như hệ thống ngân hàng Việt Nam.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Thứ nhất, phân tích thực trạng RRTK và RRTD của các NHTM trong hệ thống ngân
hàng Việt Nam.
Thứ hai, tính toán và phân tích khả năng vượt qua cú sốc RRTK và RRTD cho các
NHTM trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất giải pháp và khuyến nghị cho hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao khả
năng chịu đựng RRTK và RRTD, đảm bảo an toàn hoạt động cho hệ thống tài chính.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
1. Thực trạng khả năng thanh khoản và tín dụng, cũng như nguy cơ RRTK và RRTD
mà các NHTM thuộc hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đối mặt trong giai đoạn
2012 – 2020 như thế nào?
2. Phương pháp Stress Test do IMF xây dựng được dùng để đánh giá khả năng chịu
đựng các cú sốc rủi ro về thanh khoản và tín dụng cần phải điều chỉnh như thế nào
cho phù hợp với đặc thù hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam?
Những kịch bản cú sốc RRTK và tín dụng đã được xây dựng trong các nghiên cứu 6
được công bố đã phù hợp với đặc thù, quy trình hoạt động của hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam, và từng ngân hàng thương mại riêng lẻ trong hệ thống chưa?
Các kịch bản rủi ro này nên được xây dựng và điều chỉnh theo từng thời kỳ dựa
trên nền tảng khung lý thuyết về Stress Test của IMF như thế nào cho phù hợp với
đặc tính của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam?
3. Khả năng chịu đựng cú sốc RRTK và RRTD của các NHTM thuộc hệ thống ngân
hàng Việt Nam như thế nào qua các bài đánh giá Stress Test?
4. Các giải pháp mà các ngân hàng thương mại đang áp dụng nhằm phòng ngừa và
giảm thiểu RRTK và RRTD đã thực sự phù hợp chưa và cần những thay đổi gì?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Khả năng chịu đựng cú sốc RRTK và RRTD của NHTM trong hệ thống ngân hàng
Việt Nam.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
Nghiên cứu tập trung vào bản chất, mục đích, phương pháp luận về ST mảng thanh
khoản và tín dụng của NHTM.
Về không gian:
Đối với ST thanh khoản và ST tín dụng, luận án thực hiện đánh giá khả năng
chịu đựng cú sốc rủi ro thanh khoản đối với 26 NHTMCP trong hệ thống ngân
hàng Việt Nam (danh sách đính kèm ở Phụ lục).
Về mặt thời gian:
. Đối với ST thanh khoản, luận án tập trung vào giai đoạn từ năm 2012 đến năm
2020. Đây là giai đoạn mà hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu áp dụng Luật
các TCTD 2010, bao gồm nhiều quy định mới hoạt động kinh doanh ngân hàng
và các tiêu chuẩn an toàn vốn, tín dụng theo Basel II. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam cũng thực hiện đề án tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong thời
gian này. 7
. Đối với ST tín dụng, kịch bản nghiên cứu do luận án xây dựng đã cập nhật dựa
theo tình hình căng thẳng do dịch Covid-19 gây ra năm 2020. Chính điểm này
tạo nên giá trị mới và tính thời sự cho nghiên cứu này.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Nhằm giải quyết mục tiêu nghiên cứu nêu trên, kết hợp với đặc thù của chủ đề ST
thanh khoản và tín dụng, luận án trọng tâm sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, gồm:
phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp so sánh, diễn giải và quy nạp. Các phương
pháp này cho phép tổng quan các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm nhằm xác định bản
chất, mục đích, phương pháp luận của ST trong thanh khoản tín dụng.
Phương pháp vận dụng để xây dựng kịch bản ST cho Việt Nam gồm: nghiên cứu tài
liệu và các tiền nghiên cứu liên quan để xác định các kịch bản có thể kế thừa, nghiên cứu ý
kiến chuyên gia trên các hội thảo, tạp chí và khảo sát ý kiến chuyên gia trực tiếp.
Số liệu phục vụ tính toán được thu thập qua hệ thống báo cáo tài chính đã kiểm toán
của các NHTM công bố. Các tính toán ST được thực hiện bằng phần mềm Excel.
1.6 Các đóng góp và điểm mới của nghiên cứu
Các đóng góp của luận án này về mặt học thuật và ứng dụng trong thực tiễn như sau:
Về mặt học thuật: Luận án hệ thống hóa một cách khoa học, rõ ràng cơ sở lý thuyết
của phương pháp ST, và khung lý thuyết của ST RRTK và ST RRTD trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng. Đồng thời, luận án nghiên cứu và điều chỉnh Quy trình thực hiện (về mặt
lý thuyết) của ST RRTK và ST RRTD sao cho phù hợp với đặc thù hoạt động của các NHTM
hệ thống ngân hàng Việt Nam. Quá trình này bao gồm các bước (i) Điều chỉnh khung lý thuyết
ST do IMF xây dựng và phát triển sao cho phù hợp với đặc thù hoạt động kinh doanh của
ngân hàng, (ii) Xây dựng kịch bản cú sốc RRTK và RRTD, (iii) Thử nghiệm và điều chỉnh
Quy trình thực hiện ST trên thực tế (với số liệu thực tế của các NHTM Việt Nam).
Về mặt thực tiễn: Luận án này có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà
quản lý chính sách đưa ra các giải pháp kịp thời trước những biến động bất lợi của nền kinh
tế - xã hội trong giai đoạn mới từ 2021 – 2025, đặc biệt là giai đoạn hậu đại dịch Covid-19.
Đồng thời, các nhà quản trị ngân hàng cũng có thể tham khảo khi cần đánh giá RRTK và rủi
ro tín dụng, nhằm củng cố sức mạnh và sự ổn định của hệ thống ngân hàng Việt Nam để ứng
biến trước những diễn biến phức tạp. 8
Về đóng góp mới của luận án: Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về ST tại Việt Nam
nhưng vẫn còn một số khoảng trống nghiên cứu cần được khỏa lấp. Đầu tiên là việc nghiên
cứu và điều chỉnh mô hình ST với nền tảng do IMF xây dựng và phát triển sao cho phù hợp
với đặc thù hoạt động của các NHTM thuộc hệ thống ngân hàng Việt Nam. Để thực hiện được
việc này, nghiên cứu cần phải thực hiện khảo sát thực tế thông qua tổng hợp dữ liệu quá khứ
và phỏng vấn chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng để xây dựng các kịch bản khủng hoảng
phản ánh được rủi ro thực tế mà các NHTM Việt Nam đối mặt. Kết quả của bước nghiên cứu
này không chỉ là các kịch bản khủng hoảng mà còn là quy trình xây dựng kịch bản một cách
nhanh chóng và đáp ứng tiêu chí đánh giá đúng thực trạng rủi ro của hệ thống ngân hàng nói
chung và từng NHTM nói riêng liên quan đến thanh khoản và tín dụng trong quá trình hoạt
động kinh doanh. Khoảng trống thứ hai là chưa có nghiên cứu nào đánh giá được đồng thời
khả năng chống chịu các cú sốc RRTK và RRTD với cùng một mẫu nghiên cứu bao gồm
phần lớn các NHTM có quy mô lớn nhất trong hệ thống, trong cùng một giai đoạn nghiên cứu
để có thể rút ra được mối liên hệ giữa khả năng vượt qua các cú sốc RRTK và RRTD. Cuối
cùng, chưa có nghiên cứu nào về ST đưa yếu tố ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến nền
kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của các NHTM nói riêng vào việc xây dựng kịch
bản cú sốc rủi ro, đặc biệt những tác động này bao hàm cả dự báo về những biến động của
các biến số kinh tế vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn đại dịch Covid-19 chưa
được kiểm soát triệt để. Luận án này đã khỏa lấp ba khoảng trống nghiên cứu nêu trên khi
thực hiện áp dụng phương pháp ST vào đánh giá khả năng chống chịu các cú sốc RRTK và
RRTD của các NHTM thuộc hệ thống ngân hàng Việt Nam.
1.7 Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm các chương sau:
Chương 1: Giới thiệu về nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về Stress Test.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận.
Chương 5: Kết luận và các khuyến nghị.