Phương pháp dự báo thời tiết bằng mô hình số đã được sử dụng ở nhiều
nước trên thế giới trong nhiều thập kỷ qua. Chất lượng dự báo của các mô hình
số không ngừng được cải tiến và đã trở thành phương pháp dự báo chủ lực trong
nghiệp vụ dự báo thời tiết ở các nước phát triển. Đặc biệt là dự báo định lượng
về mưa, phương pháp dự báo bằng mô hình số cao hơn hẳn các phương pháp
truyền thống khác như sy nốp hay thống kê mặt khác, sản phẩm số của mô
hình dự báo có thể đảm bảo các yêu cầu của các mô hình dự báo thuỷ văn đối với
dự báo lũ lụt, lũ quét. Một trong những nhân tố quyết định gây nên sự hình thành
và phát triển mưa lớn trong các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như xoáy thuận
nhiệt đới, dải hội tụ nhiệt đới,. là đối lưu mây tích. Các quá trình đối lưu này
đóng vai trò quan trọng trong chu trình vận chuyển năng lượng của khí quyển và
do đó phân bố lại sự đốt nóng không đồng đều trên bề mặt trái đất. Ngoài phụ
thuộc vào độ hội tụ ẩm mực thấp, đối lưu mạnh còn phụ thuộc vào tính bất ổn
định của khí quyển. Chính vì vậy, ưu tiên phát triển phương pháp dự báo số trị,
mà trước hết là áp dụng các mô hình số ở nước ta là một hướng đi nhằm tăng
cường chất lượng dự báo.
Ở nước ta, việc nghiên cứu ứng dụng các mô hình khu vực vào dự báo thời
tiết thực sự mới bắt đầu từ cuối năm 2000, sau khi mô hình HRM được tiếp nhận
từ Cơ quan Khí tượng Đức (DWD), và được chạy theo chế độ nghiệp vụ ở
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHKHTN). Đến
giữa năm 2002 thì HRM mới được đưa vào chạy thử nghiệm ứng dụng nghiệp
vụ. Hiện nay HRM cũng là mô hình duy nhất được ứng dụng trong dự báo
nghiệp vụ ở Trung tâm Dự báo KTTV Trung ương. Kể từ sau năm 2000, một
loạt các mô hình số khác cũng đã được nghiên cứu triển khai ứng dụng ở nhiều
6
cơ sở khác nhau, như ETA, WRF, RAMS (ĐHKHTN, Trung tâm Dự báo KTTV
TW), MM5 (ĐHKHTN, Viện Khoa học KTTV và MT), Mặc dù vậy, cho đến
nay chưa có một công trình nào chỉ ra được mức độ chính xác của dự báo đối với
các mô hình này, nhất là đối với khu vực Nam Trung Bộ.
Trong bối cảnh đó, với mục đích tìm kiếm một mô hình thích hợp có khả
năng áp dụng vào nghiệp vụ dự báo cho khu vực Nam Trung Bộ, nơi mà chúng
tôi đang công tác, chúng tôi chọn đề tài luận văn tốt nghiệp của mình là “Nghiên
cứu ứng dụng mô hình MM5 vào dự báo thời tiết mùa mưa khu vực Nam
Trung Bộ”.
Nội dung của luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về các mô hình dự báo số trị dự báo thời tiết
Chương 2: Sơ lược về mô hình MM5
Chương 3: Kết quả tính toán và phân tích
88 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2173 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu ứng dụng mô hình mm5 vào dự báo thời tiết mùa mưa khu vực nam trung bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
BÙI MINH SƠN
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG MÔ HÌNH MM5
VÀO DỰ BÁO THỜI TIẾT MÙA MƯA
KHU VỰC NAM TRUNG BỘ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
HÀ NỘI – 2008
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
BÙI MINH SƠN
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG MÔ HÌNH MM5
VÀO DỰ BÁO THỜI TIẾT MÙA MƯA
KHU VỰC NAM TRUNG BỘ
Chuyên ngành: Khí tượng và khí hậu học
Mã số: 62.44.87
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phan Văn Tân
HÀ NỘI – 2008
3
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ……………………………………………………. 1
Chương 1. TỔNG QUAN CÁC MÔ HÌNH SỐ DỰ BÁO THỜI TIẾT Ở
VIỆT NAM
3
1.1 Các mô hình số dự báo thời tiết ở Việt Nam …………. 3
1.1.1 Mô hình HRM………………………………… 3
1.1.2 Mô hình RAMS ………………………………….. 4
1.1.3 Mô hình ETA ……………………………………. 5
1.1.4 Mô hình WRF …………………………………… 6
1.2 Mô hình MM5 và ứng dụng trong dự báo thời tiết ở Việt Nam và trên
Thế giới
7
1.2.1 Trên thế giới ………………….. 8
1.2.2 Ở Việt Nam ……………………… 10
Chương 2. MÔ HÌNH KHÍ TƯỢNG ĐỘNG LỰC QUY MÔ VỪA MM5… 13
2.1 Hệ các phương trình thủy nhiệt động lực học của mô hình MM5…… 13
2.2 Tham số hóa Vật lý ……………………………………… 17
2.2.1 Tham số hóa đối lưu ………………………………… 17
2.2.2 Tham số hóa vi vật lý mây……………………………… 19
2.2.3 Tham số hóa bức xạ …………………………………… 20
2.2.4 Tham số hóa lớp biên hành tinh (PBL) ……………………………… 20
2.2.5 Các sơ đồ (mô hình) đất …………………………………………… 21
2.3 Điều kiện biên và điều kiện ban đầu ………………………………… 22
2.4 Hệ tọa độ ngang và đứng ………………………………………………… 23
2.5 Cấu trúc của mô hình MM5………………………………………… 25
2.5.1 Mô đun TERRAIN ………………………………… 26
2.5.2 Mô đun REGRID ……………………………………… 26
4
2.2.3 Mô đun INTERPF……………… 28
2.2.4 Mô đun MM5 ……………………………………… 28
2.6. Các dạng sản phẩm của mô hình MM5 …………… 28
Chương 3. KẾT QUẢ TÍNH TOÁN VÀ PHÂN TÍCH…… 31
3.1 Thiết kế thí nghiệm …………………… 31
3.1.1 Lựa chọn miền tính và độ phân giải ………… 31
3.1.2 Lựa chọn các tham số Vật lý………… 32
3.1.3 Nguồn số liệu.............................. 33
3.1.4 Mô tả thí nghiệm ................................................ 33
3.2. Các phương pháp đánh giá ………………… 34
3.2.1. Đánh giá trực quan ............................. 34
3.2.2. Đánh giá thông qua các chỉ số thống kê ......... 35
3.3. Độ nhạy của các sơ đồ TSHĐL với các hình thế thời tiết gây mưa lớn 37
3.4. Khả năng dự báo mưa lớn
…………………………………………………………..
45
3.5. Khả năng dự báo nghiệp vụ ………… 64
3.5.1. Trường mưa ……………… 65
3.5.2. Trường Nhiệt độ (2m) …………… 68
3.5.3. Tốc độ gió (độ cao 10m) … 70
KẾT LUẬN ………………………… 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………. 74
PHỤ LỤC ………………………………………… 76
5
MỞ ĐẦU
Phương pháp dự báo thời tiết bằng mô hình số đã được sử dụng ở nhiều
nước trên thế giới trong nhiều thập kỷ qua. Chất lượng dự báo của các mô hình
số không ngừng được cải tiến và đã trở thành phương pháp dự báo chủ lực trong
nghiệp vụ dự báo thời tiết ở các nước phát triển. Đặc biệt là dự báo định lượng
về mưa, phương pháp dự báo bằng mô hình số cao hơn hẳn các phương pháp
truyền thống khác như sy nốp hay thống kê… mặt khác, sản phẩm số của mô
hình dự báo có thể đảm bảo các yêu cầu của các mô hình dự báo thuỷ văn đối với
dự báo lũ lụt, lũ quét. Một trong những nhân tố quyết định gây nên sự hình thành
và phát triển mưa lớn trong các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như xoáy thuận
nhiệt đới, dải hội tụ nhiệt đới,... là đối lưu mây tích. Các quá trình đối lưu này
đóng vai trò quan trọng trong chu trình vận chuyển năng lượng của khí quyển và
do đó phân bố lại sự đốt nóng không đồng đều trên bề mặt trái đất. Ngoài phụ
thuộc vào độ hội tụ ẩm mực thấp, đối lưu mạnh còn phụ thuộc vào tính bất ổn
định của khí quyển. Chính vì vậy, ưu tiên phát triển phương pháp dự báo số trị,
mà trước hết là áp dụng các mô hình số ở nước ta là một hướng đi nhằm tăng
cường chất lượng dự báo.
Ở nước ta, việc nghiên cứu ứng dụng các mô hình khu vực vào dự báo thời
tiết thực sự mới bắt đầu từ cuối năm 2000, sau khi mô hình HRM được tiếp nhận
từ Cơ quan Khí tượng Đức (DWD), và được chạy theo chế độ nghiệp vụ ở
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHKHTN). Đến
giữa năm 2002 thì HRM mới được đưa vào chạy thử nghiệm ứng dụng nghiệp
vụ. Hiện nay HRM cũng là mô hình duy nhất được ứng dụng trong dự báo
nghiệp vụ ở Trung tâm Dự báo KTTV Trung ương. Kể từ sau năm 2000, một
loạt các mô hình số khác cũng đã được nghiên cứu triển khai ứng dụng ở nhiều
6
cơ sở khác nhau, như ETA, WRF, RAMS (ĐHKHTN, Trung tâm Dự báo KTTV
TW), MM5 (ĐHKHTN, Viện Khoa học KTTV và MT),… Mặc dù vậy, cho đến
nay chưa có một công trình nào chỉ ra được mức độ chính xác của dự báo đối với
các mô hình này, nhất là đối với khu vực Nam Trung Bộ.
Trong bối cảnh đó, với mục đích tìm kiếm một mô hình thích hợp có khả
năng áp dụng vào nghiệp vụ dự báo cho khu vực Nam Trung Bộ, nơi mà chúng
tôi đang công tác, chúng tôi chọn đề tài luận văn tốt nghiệp của mình là “Nghiên
cứu ứng dụng mô hình MM5 vào dự báo thời tiết mùa mưa khu vực Nam
Trung Bộ”.
Nội dung của luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về các mô hình dự báo số trị dự báo thời tiết
Chương 2: Sơ lược về mô hình MM5
Chương 3: Kết quả tính toán và phân tích.
7
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ CÁC MÔ HÌNH SỐ DỰ BÁO THỜI TIẾT Ở VIỆT NAM
1.1. Các mô hình số dự báo thời tiết ở Việt Nam
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, nhất là trong lĩnh
vực công nghệ thông tin và điện tử viễn thông, các mô hình số dự báo thời tiết
cũng đã được xây dựng và ứng dụng vào nghiệp vụ dự báo thời tiết trong nhiều
thập kỷ qua. Đến nay, các mô hình số dự báo thời tiết đã thực sự trở thành công
cụ chủ yếu ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, một số nước Châu Âu,
Australia,v.v.
Sau đây là một số mô hình dự báo thời tiết tiêu biểu hiện đang được nghiên
cứu khai thác ứng dụng ở Việt Nam.
1.1.1. Mô hình HRM
HRM (High Resolution Regional Model) là một mô hình số thủy tĩnh dự
báo thời tiết khu vực hạn chế quy mô vừa. HRM dùng toạ độ lai theo phương
thẳng đứng, hệ toạ độ ngang quay (’, ’). Không gian trong HRM hiện nay có
thể biến thiên từ 20 đến 40 mực thẳng đứng với độ phân giải ngang từ 0,25 độ
kinh vĩ (tương đương với 28 km) đến 0.0625 độ kinh vĩ (khoảng 7 km). Hệ
phương trình nguyên thuỷ của mô hình bao gồm 7 phương trình dự báo với 7
biến ứng là khí áp bề mặt (pS), các thành phần gió ngang (u, v), nhiệt độ (T), hơi
nước (qV), nước mây (qC) và băng mây (qi). Ngoài ra còn có một số biến nhiệt độ
và độ ẩm đất.
HRM được tiếp nhận từ Cơ quan Khí tượng Đức (DWD) từ năm 2000
thông qua đề tài Khoa học Công nghệ độc lập cấp Nhà nước DBB-2000/02 do
PGS. TSKH Kiều Thị Xin làm chủ nhiệm và chạy ở chế độ nghiệp vụ tại Bộ
8
môn Khí tượng từ đó đến nay. Bắt đầu từ giữa năm 2002, HRM được đưa vào
chạy thử nghiệm và sau đó là chạy dự báo nghiệp vụ tại Trung tâm Dự báo Khí
tượng Thủy văn Trung ương. Ở Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu ứng dụng,
HRM đã được cải tiến, phát triển trên một số khía cạnh. Chẳng hạn, Bùi Hoàng
Hải [8], đã nghiên cứu phát triển HRM thành phiên bản mới (HRM_TC) vừa có
chức năng dự báo bão vừa có chức năng dự báo thời tiết nói chung [8]. Vũ
Thanh Hằng [4], đưa thêm ba sơ đồ tham số hóa đối lưu mới vào mô hình HRM
và ứng dụng dự báo mưa ở Việt Nam đạt kết quả tốt hơn so với phiên bản HRM
nguyên gốc sử dụng sơ đồ Teidtke.
Ngoài ra, mô hình HRM còn được nhiều học giả, chuyên gia trong và
nước tiến hành các nghiên cứu nhằm cải tiến kỹ năng dự báo của mô hình chẳng
hạn như đồng hóa số liệu, cập nhật số liệu quan trắc địa phương cho phù hợp với
điều kiện thời tiết ở Việt Nam.
1.1.2. Mô hình RAMS
RAMS là một mô hình khu vực hạn chế được xây dựng và phát triển tại
trường Đại học tổng hợp Colorado – Mỹ. Mô hình RAMS có khả năng ứng dụng
rộng rãi cho các mục đích khác nhau. Mô hình được thiết kế chạy được nhiều
lưới lồng với nhiều miền tính khác nhau mà độ phân giải có thể biến thiên từ vài
chục km tới vài trăm mét. Vì vậy, nó có thể mô phỏng chi tiết được các hệ thống
khí quyển quy mô nhỏ như là dòng chuyển động trên các địa hình phức tạp, các
hoàn lưu nhiệt bề mặt,... Lưới thô hơn bên ngoài sử dụng để mô phỏng các quá
trình quy mô lớn và cung cấp điều kiện biên phụ thuộc thời gian cho các lưới
tính bên trong.
9
Mô hình RAMS được tiếp thu về Việt Nam thông qua đề tài KHCN KC09-
04 do GS.TS Trần Tân Tiến làm chủ nhiệm [10], và đã từng chạy theo chế độ
nghiệp vụ tại Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học trong giai đoạn đề tài
đang triển khai. Theo các tác giả đề tài, RAMS đã chứng tỏ khả năng dự báo tốt
trong nhiều trường hợp mưa lớn, bão, và các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như
dông.
1.1.3. Mô hình ETA
ETA là mô hình dự báo khu vực do trường Đại học Belgrade và Viện Khí
tượng Thuỷ văn Federal – Belgrade cùng với Trung tâm Khí tượng Quốc tế Mỹ
xây dựng. Điểm đặc biệt của mô hình này là sử dụng hệ toạ độ thẳng đứng “eta”
(), có khả năng mô tả tốt hoàn lưu và các yếu tố khác trên khu vực địa hình
phức tạp. Mô hình ETA đang được sử dụng vào nghiệp vụ ở Mỹ, Nam Tư, Hy
Lạp, Rumani, Nam Phi, Ấn Độ, Italy, Brazil,... Bên cạnh ứng dụng trong dự báo
thời tiết hạn ngắn, mô hình còn được sử dụng trong các bài toán về môi trường,
hàng không và nông nghiệp. Mô hình ETA sử dụng hệ phương trình nguyên thủy
bất thủy tĩnh viết trên hệ tọa độ cầu với đầy đủ các tham số hóa vật lý như đối
lưu, lớp biên, vi vật lý mây, bức xạ và mô hình đất. Theo không gian, mô hình
ETA sử dụng lưới sai phân xen kẽ Arakawa-E trong đó các biến vô hướng được
xen kẽ và lệch đi nửa bước lưới so với các biến có hướng.
Ở nước ta, mô hình ETA phiên bản 2001 đã được nghiên cứu từ năm 2002
và được đưa vào chạy thử nghiệm nghiệp vụ tại Trung tâm dự báo KTTV TW từ
tháng 5-2003. Đến năm 2004, Trần Tân Tiến [10] đã tiến hành nghiên cứu và áp
dụng mô hình ETA vào xây dựng mô hình dự báo các trường Khí tượng Thủy
10
văn trên biển Đông. Theo tác giả, sai số dự báo của mô hình ETA tương đương
với các mô hình dự báo số của nước ngoài. Đỗ Ngọc Thắng [11], nghiên cứu thử
nghiệm 2 sơ đồ tham số hóa đối lưu BMJ và Kain Fristch trong mô hình ETA.
Tác giả kết luận sơ đồ Kain Fritsch có ưu thế hơn sơ đồ BMJ và cho kết quả dự
báo tốt hơn so với sơ đồ Kain Fritsch nguyên bản.
1.1.4. Mô hình WRF
WRF (the Weather Research and Forcast) là mô hình khí quyển quy mô vừa
được thiết kế linh động, có độ tùy biến cao và có thể sử dụng trong nghiên cứu
và dự báo nghiệp vụ. WRF là kết quả của sự hợp tác, phát triển của nhiều trường
đại học, trung tâm nghiên cứu và dự báo khí tượng ở Hoa Kỳ.
Hệ phương trình cơ bản của WRF là hệ phương trình đầy đủ phi thủy tĩnh
viết cho chất lỏng nén được, có khả năng mô phỏng được các quá trình khí
quyển trên nhiều quy mô khác nhau. WRF sử dụng hệ tọa độ áp suất cho phương
thẳng đứng và lưới ngang xen kẽ Arakawa-C với sơ đồ tích phân thời gian
Runge – Kutta bậc ba. Mô hình có thể sử dụng số liệu thực hoặc mô phỏng lý
tưởng với điều kiện biên xung quanh là biên tuần hoàn, mở, đối xứng, biên cấu
hình với điều kiện biên trên là lớp hấp thụ sóng dài của trái đất (suy giảm hoặc
tán xạ Rayleigh) và điều kiện biên dưới là biên cứng hoặc bề mặt trượt tự do.
Về cơ bản các sơ đồ tham số hóa vật lý của WRF đều dựa trên các mô hình
MM5, ETA, và một số mô hình khác. Các sơ đồ tham số hóa vật lý trong WRF
được chia thành năm loại: Các quá trình vi vật lý, các sơ đồ tham số hóa mây đối
lưu, các quá trình bề mặt đất, lớp biên khí quyển và tham số hóa bức xạ.
Ở Việt Nam mô hình WRF chưa được sử dụng vào nghiệp vụ dự báo thời
tiết song các nghiên cứu về mô hình này nhìn chung rất đa dạng và phong phú
11
với nhiều hướng tiếp cận khác nhau, chẳng hạn, trong nghiên cứu của mình, các
tác giả Bùi Hoàng Hải, Phan Văn Tân, Nguyễn Minh Trường [5] cho thấy WRF
là một mô hình cho phép thực hiện những mô phỏng lý tưởng XTNĐ khá thuận
lợi. Bằng công cụ này có thể mô phỏng được nhiều quá trình xảy ra trong
XTNĐ, đồng thời mở ra những hướng nghiên cứu lý tưởng sâu hơn về XTNĐ
cũng như áp dụng vào bài toán ban đầu hóa xoáy cho mô hình dự báo bão.
Nguyễn Lê Dũng, Phan Văn Tân [3], đã thử nghiệm ứng dụng hệ thống
WRF-VAR kết hợp ban đầu hóa xoáy dự báo quỹ đạo bão trên khu vực biển
Đông, các tác giả cho biết việc sử dụng nguồn số liệu “giả” đã cải thiện đáng kể
chất lượng dự báo quĩ đạo bão.
Hiện nay mô hình WRF đang được nghiên cứu và áp dụng thử nghiệm dự
báo ở Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, Viện Khoa học KTTV và
Môi Trường, Trung tâm Dự báo KTTV TW.
1.2. Mô hình MM5 và ứng dụng trong dự báo thời tiết ở Việt Nam và trên
Thế giới
Mô hình MM5 được xây dựng và phát triển với sự phối hợp của Trung tâm
Quốc gia nghiên cứu khí quyển (NCAR) và Trường Đại học tổng hợp
Pennsylvania (PSU), Mỹ. Phiên bản đầu tiên của mô hình này được Athes phát
triển từ những năm 1970. Qua quá trình thử nghiệm, mô hình đã được điều chỉnh
và cải tiến nhiều lần nhằm mô phỏng tốt hơn các quá trình vật lý qui mô khu
vực. Phiên bản cuối cùng của MM5 là MM5 V3.7. So với các phiên bản trước,
MM5 V3.7 đã được thay đổi một cách đáng kể, chủ yếu là các sơ đồ tham số hóa
12
vật lý, kỹ thuật lồng nhiều lưới, cập nhật số liệu địa phương, đồng hóa số liệu,…
chi tiết hơn về mô hình này sẽ được trình bày trong chương 2.
1.2.1. Trên thế giới
Là một trong những mô hình số khu vực được phát triển đầu tiên và được
phát hành miễn phí rộng rãi trên thế giới nên MM5 được cộng đồng các nhà khí
tượng hết sức quan tâm. Ngay từ những phiên bản đầu tiên MM5 đã nhận được
sự hưởng ứng của nhiều cơ quan dự báo thời tiết từ các quốc gia khác nhau.
Chẳng bao lâu sau đó nó đã được ứng dụng trong dự báo nghiệp vụ ở Mỹ, Hồng
Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan và nhiều nước khác.
Hình 1.1: Sản phẩm dự báo mưa của mô hình MM5
(a)- Dự báo của cơ quan Khí tượng Thái Lan; (b)- Dự báo của NCAR
Ngoài việc ứng dụng trong dự báo nghiệp vụ tại các cơ quan dự báo thời
tiết, MM5 còn được nghiên cứu theo nhiều hướng khác rất đa dạng. Chẳng hạn,
V. Kontroni và K. Lagouvardos [14], đã sử dụng mô hình MM5 với 2 lưới lồng
có độ phân giải tương ứng là 8km và 2km để dự báo trường nhiệt độ (2m) và
13
trường gió (10m) cho thành phố Athen - Hylạp. Các tác giả đánh giá rằng, khi
tăng độ phân giải mô hình từ 8km lên 2km thì kỹ năng dự báo nhiệt độ và tốc độ
gió của mô hình được cải thiện một cách đáng kể. Wei Wang và Nelson
L.Seaman [16], khảo sát độ nhạy của 4 sơ đồ TSHĐL là KuO, BM, Grell, Kain-
Fritsch bằng việc thử nghiệm dự báo 6 trường hợp mưa trong mùa lạnh và mùa
nóng trên lục địa nước Mỹ. Theo các tác giả, kỹ năng dự báo của mô hình MM5
trong mùa lạnh tốt hơn mùa nóng và sơ đồ Kain- Fritsch có kỹ năng dự báo tốt
nhất trong 4 sơ đồ đã lựa chọn thử nghiệm.
Brian A.Colle, Clifford F.Mass và Kenneth J.Westrick [12] đã tiến hành
chạy mô hình MM5 cho khu vực Tây bắc Thái Bình Dương trong các năm 1997-
1999 khi sử dụng kỹ thuật lưới lồng với 3 miền tính lồng nhau có độ phân giải
tương ứng là 36km, 12km và 4 km để đánh giá khả năng dự báo mưa của mô
hình này. Theo các tác giả, khi tăng độ phân giải từ 36km lên 12km thì kỹ năng
dự báo của mô hình tăng lên rõ rệt, sai số dự báo giảm đi một cách đáng kể; song
khi tăng độ phân giải từ 12km lên 4km thì hầu như kỹ năng dự báo của mô hình
không được cải thiện, đặc biệt đối với các trường hợp mưa lớn (>50,8mm/24h).
Trong một nghiên cứu khác, các tác giả Brian A.Colle, Clifford F.Mass
và Kenneth J.Westrick [13] đã tiến hành thử nghiệm dự báo song song 2 mô
hình ETA (độ phân giải 10km) và mô hình MM5 (2 lưới lồng 36km và 12km)
để dự báo mưa khu vực tây bắc Thái Bình Dương từ 9/12/1996- 30/4/1997. Cả
2 mô hình cho kỹ năng dự báo tương đối giống nhau, đều dự báo thiên nhỏ ở
sườn khuất núi nhưng lại dự báo thiên lớn ở sườn đón gió.
Để dự báo mưa đối lưu do Front Mei-yu gây ra ở Đài Loan, các tác giả
Fang-Ching-Chien, Ying-Hwa KuO, Mịng-Jen-Yang [15] đã sử dụng mô hình
MM5 dự báo cho mùa mưa năm 1998 và thời kỳ đầu 3 mùa mưa các năm
14
2000-2002, sai số dự báo của mô hình so với quan trắc thực tế rất thấp, đặc
biệt là trường hợp sử dụng tổ hợp dự báo 6 thành phần.
1.2.2. Ở Việt Nam
Thực tế, mô hình MM5 (version 1.0) được du nhập vào Việt Nam từ đầu
năm 1996. Tuy nhiên, do điều kiện khó khăn về máy tính, cho mãi đến cuối năm
2000, MM5 mới được chạy thử nghiệm lần đầu tiên trên máy tính SUN Ultra
Workstation ở Bộ môn Khí tượng, trường Đại học KHTN-ĐHQGHN. Đến năm
2003, Tiến sỹ Hoàng Đức Cường và các cộng sự của Viện Khoa học KTTV và
Môi trường, trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ:“Nghiên cứu
thử nghiệm áp dụng mô hình khí tượng động lực quy mô vừa MM5 trong dự báo
hạn ngắn ở Việt Nam” [1], đã khảo sát khả năng ứng dụng của MM5 trong dự
báo thời tiết ở Việt Nam. Sau đó mô hình MM5 đã được chạy dự báo thử nghiệm
theo chế độ nghiệp vụ tại Trung tâm Khí tượng Khí hậu - Viện Khoa học KTTV
và Môi trường. Mặc dù chưa phải là mô hình chạy dự báo nghiệp vụ ở cơ quan
dự báo Quốc gia, nhưng các sản phẩm dự báo của mô hình là một kênh thông tin
quan trọng giúp cho các nhà dự báo tham khảo rất hữu ích.
Hoàng Đức Cường (2008), trong phạm vi đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ:“Nghiên cứu thử nghiệm dự báo mưa lớn ở Việt Nam bằng mô hình MM5”
[2], đã sử dụng tổ hợp sản phẩm dự báo của mô hình MM5 để dự báo mưa lớn
Việt Nam. Kết quả cho thấy với tổ hợp 9 phương án dự báo có trọng số thì sai số
của mô hình nhỏ hơn so với các phương án dự báo riêng rẽ. Hơn nữa, theo tác
giả, trong số các tùy chọn sơ đồ tham số hóa đối lưu hiện có của MM5 thì 3 sơ
đồ KuO, Grell và Betts-Miller cho kết quả dự báo mưa lớn ở Việt Nam tốt nhất.
Phan Văn Tân, Bùi Hoàng Hải có phương pháp tiếp cận khác đối với mô
15
hình MM5 thông qua thử nghiệm “Ban đầu hóa xoáy ba chiều cho mô hình MM5
và ứng dụng trong dự báo quĩ đạo bão” [9]. Bên cạnh sơ đồ ban đầu hóa xoáy
mặc định của MM5, các tác giả đã đưa thêm một tùy chọn ban đầu hóa xoáy mới
dựa trên sơ đồ phân tích xoáy của mô hình TC-LAPS. Kết quả cho thấy, việc
ban đầu hóa xoáy bằng các sơ đồ phân tích và xây dựng xoáy nhân tạo đã làm
tăng độ chính xác của quĩ đạo bão dự báo của mô hình. Cùng hướng tiếp cận
đó Đặng Hồng Nga (2006) đã nghiên cứu áp dụng sơ đồ ban đầu hóa TC-LAPS
vào mô hình MM5 và đạt được những kết quả khả quan trong nâng cao chất
lượng dự báo bão bằng mô hình số.
Như vậy, cho đến nay mô hình MM5 đã được nghiên cứu và thử nghiệm
ứng dụng với nhiều hướng khác nhau, kết quả thu được thông qua các đề tài
nghiên cứu ứng dụng hay các chuyên đề nghiên cứu thử nghiệm đều nhằm tạo ra
các sản phẩm dự báo ngày một thêm phong phú.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu đánh giá
khả năng dự báo của mô hình MM5 theo hướng đánh giá dự báo nghiệp vụ.
Nam Trung Bộ là một trong những khu vực thường chịu ảnh hưởng của các
đợt mưa lớn. Địa hình khu vực Nam Trung Bộ khá phức tạp, phía Tây là dãy
Trường Sơn có độ cao từ 1000 đến 1500m, phía đông nằm kề sát biển Đông, với
một dải đồng bằng duyên hải nhỏ, hẹp, thỉnh thoảng xen giữa là các dãy núi chắn
ngang ra biển tạo nên sự phân hóa sâu sắc trong chế độ thời tiết, khí hậu. Sự xuất
hiện mưa, nhất là mưa lớn, ở đây thường gây ra những hậu quả nghiêm trọng
như lũ lụt, trượt lở đất,… ảnh hưởng xấu đến đời sống và các hoạt động kinh tế -
xã hội. Do đó, việc dự báo mưa định lượng là một trong những bài toán hết sức
quan trọng cần được quan tâm giải quyết nhằm góp phần giảm nhẹ và phòng
tránh thiên tai cũng như phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
16
an ninh - quốc phòng. Điều đó gợi mở cho chúng tôi hướng tiếp cận ứng dụng
mô hình số vào dự báo thời tiết các tháng mùa mưa cho khu vực Nam Trung Bộ.
Qua tìm hiểu và tham khảo các công trình nghiên cứu như đã nêu trên
đây, chúng tôi nhận thấ