Pháp luật tố tụng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật ở Việt Nam
cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào thì pháp luật tố
tụng luôn có tầm quan trọng đặc biệt để thiết lập một thể chế quyền lực tư pháp nhằm
bảo vệ nhà nước, bảo vệ chế độ chính trị xã hội, duy trì công lý, đảm bảo quyền con
người, quyền công dân và những giá trị nhân văn của nhân loại.
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050,
Nhà nước Việt Nam đã thông qua bản Hiến pháp năm 2013, những chính sách chung từ
các kỳ đại hội Đảng, các Nghị quyết của Hội nghị trung ương, hoạch định cho nền tư
pháp và Tòa án trách nhiệm cải tổ toàn diện, từng bước hoàn thiện về cơ cấu tổ chức,
kiểm soát và quản lý chặt chẽ hoạt động tố tụng. Tất cả đều nhằm hướng tới mục tiêu
đảm bảo công lý, công bằng, an toàn, an ninh và an sinh xã hội, không chỉ trong nước
mà cả ở trong khu vực và trên trường quốc tế. Trong báo cáo chính trị, Đại hội Đảng lần
thứ XII đã khẳng định:“Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp,
xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”[1, tr.114]. Nhìn lại
hơn ba mươi năm cải cách, đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế, pháp luật tố tụng
nói riêng và hệ thống tư pháp nói chung ở Việt Nam đến nay vẫn bộc lộ nhiều điểm bất
cập, hạn chế. Thực trạng oan sai trong hoạt động truy tố, điều tra, xét xử làm cho người
dân khó tin tưởng vào cán cân công lý, điều đó đặt ra cho ngành Tòa án và các cơ quan
tiến hành tố tụng trách nhiệm phải có một kế hoạch cải tổ lâu dài, sâu sắc và triệt để.
Thực hiện các nhiệm vụ trên, bên cạnh việc nghiên cứu các mô hình tố tụng tiến bộ của
các nhà nước trong khu vực và trên thế giới cũng cần phải có các công trình nghiên cứu
chuyên sâu về pháp luật tố tụng truyền thống ở Việt Nam trong tiến trình lịch sử. Trên
cơ sở đó tìm ra những ưu điểm, tiến bộ cần kế thừa cũng như những nhược điểm, hạn
chế cần khắc phục; tìm ra những bài học kinh nghiệm và giải pháp mới cho quá trình
thiết kế, kiến tạo nền tư pháp tiến bộ hiện đại, hội nhập văn minh, tôn trọng quyền dân
tộc, quyền quốc gia và quyền con người, tạo lập sự bình yên cho xã hội.
Dưới góc nhìn lịch sử tư pháp, Việt Nam sở hữu những di sản cổ luật tiến bộ đặc
sắc so với các nhà nước khác cùng thời, nhưng trên thực tế nguồn tư liệu lưu trữ và các
công trình nghiên cứu về cổ luật nói chung, về tố tụng trong cổ luật nói riêng còn nhiều
hạn chế. Tra cứu hầu hết các tàng thư, thư viện, danh mục các công trình khoa học
nghiên cứu về pháp luật tố tụng trong thời kỳ quân chủ phong kiến vẫn còn rất nhiều
khoảng trống. Phan Huy Chú từng nghiên cứu về hệ thống pháp luật truyền thống Việt
Nam, ông rất nuối tiếc cho sự mất mát những di sản văn hóa pháp luật của dân tộc. Ông
đã than rằng:“Sách điển chương pháp chế của cả một triều đại làm khuôn phép đời đời
mà mất mát như thế, thực có đáng tiếc không?”[11, tr.65]. Trần Trọng Kim thì cho152
rằng: đó là ngôi nhà cổ rất đẹp, lâu ngày không ai sang sửa, bụi đã phủ mờ. Tác giả Vũ
Văn Mẫu đã viết: cổ luật Việt Nam là linh hồn trí não người xưa kết đúc lại cho thế hệ
chúng ta qua bao lớp phế hưng của lịch sử [35; 123; 131].
151 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 592 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------- -------
HÀ THỊ LAN PHƯƠNG
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG PHONG KIẾN VIỆT NAM
TỪ THẾ KỶ XV ĐẾN THẾ KỶ XIX
Ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số : 9 38 01 06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương
HÀ NỘI - 2019
151
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Pháp luật tố tụng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật ở Việt Nam
cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào thì pháp luật tố
tụng luôn có tầm quan trọng đặc biệt để thiết lập một thể chế quyền lực tư pháp nhằm
bảo vệ nhà nước, bảo vệ chế độ chính trị xã hội, duy trì công lý, đảm bảo quyền con
người, quyền công dân và những giá trị nhân văn của nhân loại.
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050,
Nhà nước Việt Nam đã thông qua bản Hiến pháp năm 2013, những chính sách chung từ
các kỳ đại hội Đảng, các Nghị quyết của Hội nghị trung ương, hoạch định cho nền tư
pháp và Tòa án trách nhiệm cải tổ toàn diện, từng bước hoàn thiện về cơ cấu tổ chức,
kiểm soát và quản lý chặt chẽ hoạt động tố tụng. Tất cả đều nhằm hướng tới mục tiêu
đảm bảo công lý, công bằng, an toàn, an ninh và an sinh xã hội, không chỉ trong nước
mà cả ở trong khu vực và trên trường quốc tế. Trong báo cáo chính trị, Đại hội Đảng lần
thứ XII đã khẳng định:“Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp,
xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”[1, tr.114]. Nhìn lại
hơn ba mươi năm cải cách, đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế, pháp luật tố tụng
nói riêng và hệ thống tư pháp nói chung ở Việt Nam đến nay vẫn bộc lộ nhiều điểm bất
cập, hạn chế. Thực trạng oan sai trong hoạt động truy tố, điều tra, xét xử làm cho người
dân khó tin tưởng vào cán cân công lý, điều đó đặt ra cho ngành Tòa án và các cơ quan
tiến hành tố tụng trách nhiệm phải có một kế hoạch cải tổ lâu dài, sâu sắc và triệt để.
Thực hiện các nhiệm vụ trên, bên cạnh việc nghiên cứu các mô hình tố tụng tiến bộ của
các nhà nước trong khu vực và trên thế giới cũng cần phải có các công trình nghiên cứu
chuyên sâu về pháp luật tố tụng truyền thống ở Việt Nam trong tiến trình lịch sử. Trên
cơ sở đó tìm ra những ưu điểm, tiến bộ cần kế thừa cũng như những nhược điểm, hạn
chế cần khắc phục; tìm ra những bài học kinh nghiệm và giải pháp mới cho quá trình
thiết kế, kiến tạo nền tư pháp tiến bộ hiện đại, hội nhập văn minh, tôn trọng quyền dân
tộc, quyền quốc gia và quyền con người, tạo lập sự bình yên cho xã hội.
Dưới góc nhìn lịch sử tư pháp, Việt Nam sở hữu những di sản cổ luật tiến bộ đặc
sắc so với các nhà nước khác cùng thời, nhưng trên thực tế nguồn tư liệu lưu trữ và các
công trình nghiên cứu về cổ luật nói chung, về tố tụng trong cổ luật nói riêng còn nhiều
hạn chế. Tra cứu hầu hết các tàng thư, thư viện, danh mục các công trình khoa học
nghiên cứu về pháp luật tố tụng trong thời kỳ quân chủ phong kiến vẫn còn rất nhiều
khoảng trống. Phan Huy Chú từng nghiên cứu về hệ thống pháp luật truyền thống Việt
Nam, ông rất nuối tiếc cho sự mất mát những di sản văn hóa pháp luật của dân tộc. Ông
đã than rằng:“Sách điển chương pháp chế của cả một triều đại làm khuôn phép đời đời
mà mất mát như thế, thực có đáng tiếc không?”[11, tr.65]. Trần Trọng Kim thì cho
152
rằng: đó là ngôi nhà cổ rất đẹp, lâu ngày không ai sang sửa, bụi đã phủ mờ. Tác giả Vũ
Văn Mẫu đã viết: cổ luật Việt Nam là linh hồn trí não người xưa kết đúc lại cho thế hệ
chúng ta qua bao lớp phế hưng của lịch sử [35; 123; 131].
Theo thời gian và theo dòng lịch sử, những giá trị pháp lý truyền thống và phong
tục tập quán được phản ánh trong những quy phạm pháp luật cũng như thực tiễn ứng
dụng dường như vẫn đang tồn tại trong xã hội của chúng ta. Đó là pháp luật truyền
thống về hành chính quan chế, quân sự an ninh, đất đai tài sản, gia đình và hôn nhân,
dân sự và thừa kế, hương hỏa điền sản, tôn giáo và tín ngưỡng tâm linh. Truyền thống
pháp luật còn đó nhưng các công trình nghiên cứu chuyên sâu thì hầu như vẫn còn để
ngỏ. Muốn hoạch định được tương lai thì cần hiểu sâu về quá khứ. Đó là nguyên lý tất
yếu của tính kế thừa biện chứng và sự phát triển của sự vật hiện tượng khách quan.
Trong tiến trình hội nhập và phát triển, việc tìm hiểu và phát huy được những giá trị của
di sản pháp lý cha ông, trân trọng giữ gìn bảo lưu truyền thống pháp luật nhân văn của
dân tộc luôn là vấn đề thiết yếu của khoa học Việt Nam.
Với những lý do trên và mong muốn góp phần xây dựng nền tư pháp chuyên
nghiệp và chuẩn mực nhằm mục đích bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, nghiên
cứu sinh đã lựa chọn đề tài:“Pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV đến
thế kỷ XIX” làm luận án tiến sỹ luật học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1 . Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thông qua nghiên cứu quá trình hình thành phát triển, hình thức và nội dung của
pháp luật tố tụng PKVN từ thế kỷ XV – XIX, luận án làm sáng tỏ những thành tựu, giá
trị và khả năng tiếp thu, ứng dụng trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật tố tụng và cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước, khu vực và quốc
tế về pháp luật tố tụng quân chủ phong kiến Việt Nam. Từ đó chỉ ra những vấn đề đã
được nghiên cứu và những vấn đề còn bỏ ngỏ cần tiếp tục bổ sung.
Thứ hai, những vấn đề lý luận và lịch sử về pháp luật tố tụng của nhà nước quân
chủ phong kiến Việt Nam thế kỷ XV - XIX.
Thứ ba, nghiên cứu pháp luật tố tụng của các triều đại Lê Trịnh Nguyễn thông
qua các Bộ luật, Hội điển, Điển chế và các ghi chép trong chính sử. Nghiên cứu những
quy định về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, trình tự và thủ tục tố tụng, quy trình xét xử các
vụ án và giải quyết các vụ việc kiện tụng trong hoạt động tư pháp của nhà nước quân
chủ PKVN. Tiếp cận những nội dung cơ bản của pháp luật tố tụng như: khởi kiện, thụ
lý, khảo cung, xét xử, thi hành án, về xác định sự thật của vụ án, về oan sai, về bảo vệ
nhân mạng, trách nhiệm của quan án; phân loại tố tụng theo“loại vụ việc” nguyên tắc
“Tôn quân quyền” tập quyền song hành với phân quyền và tản quyền trong quản lý nhà
nước về lĩnh vực tư pháp.
153
Thứ tư, đánh giá được những giá trị lịch sử và đương đại, những tiến bộ và
những hạn chế trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng của nhà nước phong
kiến. Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp trong việc tiếp thu, kế thừa và phát triển những
thành tựu của pháp luật tố tụng truyền thống, vận dụng sáng tạo và phù hợp trong cải
cách tư pháp xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận án tập trung nghiên cứu các quan điểm khoa học về pháp luật tố tụng, nội
dung của pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX và quan
điểm tiếp nhận pháp luật truyền thống trong xây dựng pháp luật đương đại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về thời gian, đề tài nghiên cứu về pháp luật tố tụng của nhà nước quân chủ Việt
Nam từ thế kỷ XV đến XIX (1428 – 1884). Chủ yếu là thời Lê Sơ (1428 – 1527), thời
Lê Trịnh (1599 – 1786) và triều Nguyễn (1802 – 1884). Về không gian: đề tài nghiên
cứu chuyên sâu về pháp luật tố tụng trong việc quản lý nhà nước về tư pháp căn cứ theo
vùng lãnh thổ Việt Nam, từ miền Bắc thời Lê đến cả Bắc Nam trong triều Nguyễn,
đồng thời mở rộng so sánh thêm ở một số nước trong khu vực và thế giới.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận của luận án
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, luật học, sử học, kinh tế học, chính trị học, hành chính học và
logic học. Sử dụng phương pháp luận nghiên cứu kết hợp lịch sử so sánh (comparative
History), luật học so sánh (comparative Law) với tính kế thừa và phát triển.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án đã sử dụng những phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa học xã
hội và những phương pháp nghiên cứu đặc thù trong nghiên cứu khoa học pháp lý như:
Phương pháp thống kê: được sử dụng trong luận án nhằm tập hợp, đánh giá tình
hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, hệ thống tổ chức các cơ quan tư pháp tố tụng, các
văn bản pháp luật và nguồn sử liệu của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Phương pháp hệ thống hóa: được sử dụng nhằm nhận diện và đánh giá cơ cấu tổ
chức hoạt động của cơ quan tố tụng trong mối liên hệ với tổ chức nhà nước PKVN. Sử
dụng phương pháp cấu trúc hệ thống để nghiên cứu kỹ thuật lập pháp, nghiên cứu về
trình tự thủ tục tố tụng, mối quan hệ giữa pháp luật tố tụng với các lĩnh vực pháp luật
khác, vị trí vai trò của pháp luật tố tụng trong hệ thống pháp luật chung.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng trong luận án nhằm nghiên cứu,
luận giải về các nội dung liên quan đến chủ đề luận án. Kết hợp phương pháp quy nạp,
diễn dịch, phân tích, chứng minh, giải thích, nhận xét đánh giá các chế định về tố tụng,
các quy định, chế tài áp dụng trong hoạt động xét xử và thi hành án.
Phương pháp luật học so sánh: được sử dụng trong luận án để làm sáng tỏ hệ
154
thống cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng, vấn đề thời hiệu, thời hạn, chứng cứ,
chứng minh, sự chuyển đổi thể chế và quy trình tố tụng qua các giai đoạn lịch sử.
Phương pháp xã hội học pháp luật: được sử dụng trong luận án nhằm khảo xét
thực tiễn lịch sử pháp luật tố tụng trong xã hội phong kiến. Nghiên cứu một số bản án
được ghi lại trong chính sử và dấu ấn của nó trong tâm thức dân tộc.
Phương pháp trao đổi, tọa đàm: sử dụng để trao đổi trên diễn đàn tạp chí khoa
học chuyên ngành, liên ngành và các hội thảo.
Phương pháp logic và lịch sử: được sử dụng chủ yếu trong luận án nhằm nhận
diện đặc điểm, tiến trình phát triển của pháp luật tố tụng qua các triều đại.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp khái quát, mô hình hóa các cơ quan
hành chính tư pháp; tiếp cận văn bản học để nghiên cứu các bộ luật cổ; hồi cố, hậu suy
phục dựng lại bối cảnh lịch sử quá khứ để phân tích, suy xét, lập luận vấn đề; phương
pháp định lượng, định tính, kết hợp với thống kê, phân loại các điều luật để đánh giá về
số lượng, qua đó nhận thấy rõ nội dung, bản chất của vấn đề cần nghiên cứu theo
nguyên lý lượng đổi chất đổi. Bên cạnh đó là phương pháp đồng đại, lịch đại, nghĩa là
đặt các sự vật hiện tượng, vấn đề cùng loại trong tính logic của thời gian để thấy được
tính vượt trước hoặc chậm trễ của pháp luật qua các thời kỳ. Luận án dựa trên cách tiếp
cận liên ngành, đa ngành khoa học xã hội để nghiên cứu và luận giải về pháp luật tố
tụng trong bức tranh tổng thể của xã hội Việt Nam thế kỷ XV – XIX.
5. Những đóng góp mới về nghiên cứu khoa học của luận án
Những đóng góp về lý luận của Luận án
- Thứ nhất, Luận án đã nhận diện và làm rõ những vấn đề lý luận và lịch sử về
pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam thời Lê Trịnh Nguyễn cả dưới góc độ
tổng quát và chuyên ngành.
- Thứ hai, Trên cơ sở đó chỉ ra mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị, tư
tưởng và phong tục tập quán đến pháp luật tố tụng; luận giải vị trí vai trò, những
nguyên tắc, đặc điểm, bản chất, mục tiêu, tính phổ biến và những điểm đặc thù
của pháp luật tố tụng thời quân chủ PKVN. Nghiên cứu so sánh cho thấy, Việt
Nam là một trong những quốc gia xây dựng bộ luật chuyên ngành về tố tụng đầu
tiên ở khu vực châu Á và thế giới.
Những đóng góp về thực tiễn của Luận án
- Thứ nhất, Luận án trình bày bức tranh tổng thể, nghiên cứu khá toàn diện, hệ
thống và chuyên sâu về hình thức, thủ tục, nội dung và thành tựu cơ bản của pháp luật
tố tụng phong kiến Việt Nam trong thực tiễn lịch sử từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX.
- Thứ hai, Luận án làm sáng tỏ một số nội dung về tính dân tộc đặc sắc, phân tích
tính độc đáo, tiến bộ của một số chế định như: thẩm quyền và trình tự tố tụng, thủ tục tố
tụng, quy trình tố tụng, hoạt động và giám sát tố tụng, phân loại vụ việc trong tố tụng,
án lệ và các tiền lệ tư pháp, phạt tiền và chuộc hình phạt bằng tiền, chế độ Công đồng
Đình nghị, Thu thẩm và cơ chế liên ngành Tam pháp ty. Luận án đã nhận diện và phân
155
tích tính đặc thù của thể chế quyền lực tư pháp thời Lê Sơ – Lê Thánh Tông, Lê Trịnh
và triều Nguyễn trong nhà nước quân chủ phong kiến Việt Nam ở giai đoạn có nhiều
biến động lịch sử thế kỷ XV - XIX.
- Thứ ba, Luận án chỉ ra những giá trị lịch sử và đương đại cũng như một số giải
pháp tiếp thu kế thừa các giá trị đó trong quá trình hoàn thiện pháp luật tố tụng, cải cách
tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo vệ bảo hộ quyền công dân và quyền con
người ở Việt Nam, khu vực và thế giới.
Pháp luật tố tụng PKVN thế kỷ XV - XIX có nhiều thành tựu đáng để nghiên
cứu và suy ngẫm. Kết quả nghiên cứu cho thấy pháp luật tố tụng ứng dụng trong giai
đoạn lịch sử thế kỷ XV – XIX và có giá trị tham khảo cho quá trình cải cách tư pháp
trong thời đại mới. Tiếp thu những giá trị của pháp luật tố tụng truyền thống trên tinh
thần chỉnh hợp có chọn lọc những yếu tố tiến bộ của pháp luật tố tụng, đó là yêu cầu và
trách nhiệm của khoa học pháp lý trong thực tiễn xã hội hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án làm sáng tỏ thực tiễn lập pháp, giá trị pháp lý của pháp luật tố tụng
truyền thống, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm về lập pháp, xây dựng văn bản
pháp luật và áp dụng pháp luật tố tụng trong hoạt động tư pháp xét xử, đề ra các giải
pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng. Luận án cũng gợi mở hướng nghiên cứu một số văn
bản pháp luật thời Lê, Hội điển và Châu bản triều Nguyễn, so sánh với pháp luật tố tụng
thời thuộc Pháp và Việt Nam Cộng hòa để tìm ra giá trị và bài học cho đương thời.
7. Kết cấu của luận án
Nội dung của luận án ngoài lời cảm ơn, cam đoan, bảng ký hiệu viết tắt, mở đầu,
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, gồm có 4 chương như sau:
Chương một: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chương hai: Nhận diện về lý luận và lịch sử pháp luật tố tụng PKVN
Chương ba: Những quy định pháp luật tố tụng PKVN thế kỷ XV – XIX
Chương bốn: Giá trị lịch sử và đương đại của pháp luật tố tụng PKVN trong quá
trình cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay
156
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Khái lược về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài pháp luật tố tụng ở trong nước
Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về pháp luật tố tụng PKVN thế
kỷ XV – XIX song chưa mang tính tổng thể và vẫn còn nhiều khoảng trống.
Căn cứ vào các nguồn tư liệu, có thể chia thành 2 nhóm chính: (i) nhóm các công
trình nghiên cứu chung về lý luận và lịch sử pháp luật Việt Nam thời phong kiến có liên
quan đến lĩnh vực tố tụng; (ii) nhóm các công trình nghiên cứu chuyên ngành về pháp
luật tố tụng ở Việt Nam thế kỷ XV - XIX. Các công trình nghiên cứu chủ yếu hai Bộ
luật pháp điển là QTHL triều Lê và HVLL triều Nguyễn. Có thể khái lược một số tác
giả và công trình tiêu biểu sau đây.
Nghiên cứu chung về lý luận & lịch sử pháp luật tố tụng PKVN
Tiếp cận dưới góc độ lý luận và lịch sử về pháp luật tố tụng PKVN có thể nhìn từ
góc độ tổng quát đến chuyên ngành. Trong tổng thể của bộ máy nhà nước, từ cơ sở kinh
tế xã hội tư tưởng chính trị pháp lý đến quá trình hình thành phát triển, từ tổ chức bộ
máy đến các quy phạm, chế định điều luật, từ khái niệm, quan niệm đến vị trí, vai trò,
nguyên tắc, đặc điểm, bản chất pháp luật tố tụng, tất cả đều nằm trong sự vận động
chung của chính thể quân chủ qua các giai đoạn lịch sử. Nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ và
hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề này. Tuy vậy,
cũng có thể tiếp thu kế thừa những kết quả nghiên cứu từ các công trình tiêu biểu sau:
Lịch triều Hiến chương loại chí (1819) của học giả Phan Huy Chú được coi là
công trình “Quốc chí” bách khoa thư nghiên cứu những giá trị cơ bản nhất của một thể
chế nhà nước trong đó có nội dung về kinh tế, chính trị, quân sự và pháp luật triều Lê.
Các mục như Dư địa chí, Nhân vật chí, Quan chức chí, Quốc dụng chí, Hình luật chí,
Binh chế chí, cho chúng ta cách nhìn tổng diện về cơ sở của chế độ hành chính tư pháp
PKVN. Nội dung pháp luật tố tụng từ năm 1625 đến năm 1765 và bộ QTKTĐL năm
1777 đã được tác giả Phan Huy Chú khảo lược, đánh giá. Theo đó “Các mục luật văn
gồm có hơn 700 điều, thật rất rõ ràng đầy đủ, dùng để nêu thể lệ xét xử, thích hợp với
dân tình, cân nhắc và thêm bớt, cho nên đủ để đối phó với các trạng thái biến hóa của
đời sống và ngăn ngừa người dân vi phạm. Để cho những người cầm nắm pháp luật,
gặp việc thì chước lượng theo đó mà xét nặng nhẹ, định thêm bớt.” [10, tr.389]. “Các
Lệ xét kiện chuẩn định năm Đinh Dậu đời Cảnh Hưng năm 1777, tham chước quy thức
các triều, hoạch định thống nhất rõ ràng, điều mục tỷ mỷ, không bỏ sót gì, người xét xử
sẵn có Luật thường để quyết định, có Lệ thường để thích ứng, nếu noi theo cẩn thận thì
dứt được tệ gian, bớt được hình ngục, mực thước không thể bỏ qua được”[10, tr. 407]
[9;11]. Với công trình này, có thể tìm hiểu về cơ sở và quá trình hình thành phát triển,
vị trí vai trò, đặc điểm và mối quan hệ của pháp luật tố tụng trong tổng thể pháp luật và
157
bộ máy nhà nước, về quan chế công vụ tư pháp, về tuyển bổ, giám sát, khảo khóa quan
lại hành chính quân sự tư pháp, về thẩm quyền tố tụng tối cao của vua và chúa.
Quốc triều Luật Lệ toát yếu (1919) do Tổng tài Cao Xuân Dục biên tập. Đây là
cuốn lược giản bộ HVLL triều Nguyễn, là tài liệu để nghiên cứu và đào tạo tại trường
Cao đẳng Luật Đông Dương thời thuộc Pháp, trong đó có phần pháp luật tố tụng và một
số văn bản bổ sung qua các triều vua Minh Mệnh, Tự Đức [59, tr.34, 218 - 227]. Đây là
công trình giúp cho người nghiên cứu hiểu cơ bản về pháp luật triều Nguyễn.
“Pháp chế sử”(1967) của Vũ Quốc Thông có thể được coi là công trình nghiên
cứu tiêu biểu nhất về chính thể quân chủ và tổ chức hành chính tư pháp PKVN. Học giả
Vũ Quốc Thông đã khảo cứu về hoạt động tố tụng trong mối quan hệ thống nhất với bộ
máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, theo cơ cấu hành chính xã thôn tự trị.
Công trình cho chúng ta cách nhìn khoa học về tổ chức hệ thống tư pháp xét xử xuất
phát từ chế độ chính trị, chế độ hành chính thông qua các định chế pháp lý. Trong đó
nội dung gồm 3 phần: phần 1, về chế độ chính trị, chính thể quân chủ qua các thời kỳ từ
968 đến 1945, bao gồm tổ chức chính quyền trung ương và địa phương; phần 2, về chế
độ hành chính, quản lý nền hành chính trung ương và địa phương theo mô hình xã thôn
tự trị với cơ cấu hội đồng hàng tỉnh, hội đồng thành phố; phần 3 về chế độ tư pháp với
cách thức tổ chức các pháp đình. Đây là công trình nghiên cứu khá hiếm hoi dưới góc
độ luật học về chính thể quân chủ và bộ máy nhà nước, trong đó có hệ thống hành chính
tư pháp xét xử. Chính vì vậy nên cho dù khá giản lược nhưng đây là cách tiếp cận khoa
học và toàn diện về thể chế tư pháp trong bộ máy nhà nước thời quân chủ phong kiến,
trong đó hành chính, tư pháp là một bộ phận quan trọng của thể chế chính trị, quân sự
theo hình thức quân chủ tập quyền [209, tr.5 -13]. Qua nghiên cứu, tác giả có thể nhận
định với một số luận điểm như sau:
Một là, công trình đã có những nghiên cứu cơ bản về chính thể quân chủ và vị trí
của nhà vua trong hệ thống hành chính tư pháp. Nhà nước quân chủ phong kiến có quan
niệm về thế quyền và thần quyền. Về thế quyền, nhà vua ban hành ra luật pháp, là vị thủ
lĩnh cao cấp nhất của nền hành chính quốc gia. Nhà vua cũng đồng thời là vị Thẩm
phán tối cao có quyề