Luận văn Bản sắc dân tộc trong văn xuôi Triều Ân

Từ những năm 50, 60 của thế kỷ XX, lớp nhà văn là người dân tộc thiểu số đã xuất hiện và trưởng thành với nhiều tác phẩm phản ánh hiện thực cuộc sống ở vùng quê của họ. Một trong các tác giả tiêu biểu đó là nhà văn Triều Ân. Ông là một trong mười sáu nhà văn dân tộc th iểu số đầu tiên có mặt trong cuốn Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (Nxb Văn hóa dân tộc – 1988). Gần 50 năm cầm bút, sáng tác và nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào Triều Ân cũng có những tác phẩm để lại dấu ấn rõ nét trong đời sống văn học và văn hóa dân tộc ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Ông bắt đầu con đường văn học của mình bằng thơ và đoạt giải nhì cuộc thi thơ 1960 – 1961 do Tạp chí Văn nghệ tổ chức với bài thơ Quê ta anh biết chăng?. Bên cạnh thơ, Triều Ân còn viết văn xuôi. Truyện ngắn Bên bờ suối tiên của ông đã được giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Việt Bắc (1962). Đến nay, ngoài 8 tập thơ tiếng Việt và 1 tập thơ tiếng Tày, Triều Ân đã xuất bản năm tập truyện ngắn: Tiếng hát rừng xa (Nxb Văn học – H.1969), Tiếng khèn A Pá (Nxb Tác phẩm mới – H.1980), Như cánh chim trời (Nxb Kim Đồng – 1982), Đường qua đèo mây (Nxb Văn nghệ Cao Bằng – 1988) và Xứ sương mù (Nxb Văn học – H.2000). Vào thập niên chín mươi của thế kỉ XX, Triều Ân lại tìm đến thể loại tiểu thuyết, và chỉ trong vòng mười năm ông đã cho ra mắt ba cuốn tiểu thuyết: Nắng vàng bản Dao (1992), Nơi ấy biên thùy (1994), Dặm ngàn rong ruổi (2000). Những sáng tác tiêu biểu của ông đã được tập hợp trong cuốn Tuyển tập thơ văn Triều Ân (Nxb Văn học – H.2006). Với những hoạt động sáng tạo và nghiên cứu văn học phong phú trên nhiều phương diện, có thể nói Triều Ân là một trí thức, một nhà nghiên cứu, một văn nghệ sỹ tiêu biểu của văn học hiện đại các dân tộc thiểu số nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Trong quá trình nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại, một số nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã quan tâm đến mảng văn học dân tộc và miền núi. Song các nhà nghiên cứu, phê bình văn học chủ yếu tập trung vào sáng tác của những nhà văn người Kinh mà tên tuổi đã nổi tiếng, quen thuộc trong đời sống văn học viết về đề tài miền núi. Trong khi đó, một bộ phận không nhỏ các nhà văn người dân tộc thiểu số với những thành tựu và cống hiến xứng đáng cho nền văn học nước nhà, đặc biệt với văn học thiểu số, lại ít được nghiên cứu, giới thiệu rộng rãi. Do vậy việc tìm hiểu nghiên cứu về văn học miền núi, nhất là với những sáng tác do chính các tác giả người miền núi viết trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc gia và quốc tế hiện nay là việc làm có ý nghĩa cấp thiết. Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài: Bản sắc dân tộc trong văn xuôi Triều Ân

pdf128 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bản sắc dân tộc trong văn xuôi Triều Ân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HOÀNG THỊ VI BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG VĂN XUÔI TRIỀU ÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HOÀNG THỊ VI BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG VĂN XUÔI TRIỀU ÂN Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS - TS NGUYỄN BÍCH THU THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS - TS Nguyễn Bích Thu, nhà văn Triều Ân đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo và nghiên cứu khoa học – Quan hệ quốc tế, các thầy cô giáo khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, các thầy cô giáo Viện Văn học, Trường Trung học phổ thông Cao Bình cùng bạn bè và những người thân trong gia đình đã tạo mọi điều kiện tốt đẹp để giúp đỡ, động viên tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu. Thái Nguyên, ngày 30 tháng 9 năm 2009 Tác giả Hoàng Thị Vi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài............................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................... 2 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................... 5 3.1. Đối tượng nghiên cứu: ............................................................... 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu: .................................................................. 5 4. Mục đích nghiên cứu ........................................................................ 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................. 5 6. Cấu trúc luận văn ............................................................................. 6 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................ 7 Chƣơng 1: VÀI NÉT VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN TRIỀU ÂN ............................................................ 7 1.1. Bản sắc văn hóa dân tộc ................................................................ 7 1.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa Việt Nam .................................. 7 1.1.2. Đặc điểm văn hóa dân tộc (Tày, Dao) ................................. 10 1.2. Sáng tác của Triều Ân trong dòng chảy của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ........................................................... 22 1.2.1. Đôi nét về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ................................................................................................ 22 1.2.2. Sáng tác của Triều Ân ......................................................... 23 Chƣơng 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG VĂN XUÔI TRIỀU ÂN................................................................................... 34 2.1. Phƣơng diện phong tục tập quán ................................................ 34 2.1.1. Văn hoá Tày, Dao qua lễ hội, chợ phiên ............................. 35 2.1.2. Văn hóa Tày, Dao qua hôn nhân ......................................... 39 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2.1.3. Tập quán sinh nở và lễ đầy tháng tuổi của đồng bào Tày, Dao ............................................................................................... 44 2.1.4. Văn hoá Tày, Dao trong tổ chức đời sống cộng đồng .......... 47 2.2. Phƣơng diện nghề thủ công và trang phục ................................ 54 2.2.1. Nghề thủ công ..................................................................... 54 2.2.2. Vẻ đẹp trang phục ............................................................... 58 2.3. Văn hóa Tày, Dao qua y học dân tộc ......................................... 63 2.4. Dấu ấn văn hóa Tày, Dao ở phƣơng diện đời sống văn nghệ, tín ngƣỡng và tâm hồn ....................................................................... 70 2.4.1. Đời sống văn nghệ .............................................................. 70 2.4.2. Đời sống tín ngưỡng ........................................................... 80 2.4.3. Đời sống tâm hồn ................................................................ 80 Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG VĂN XUÔI TRIỀU ÂN ........................................ 85 3.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ..................................................... 85 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................... 97 3.2.1. Đặc tả ngoại hình nhân vật ................................................. 97 3.2.2. Xây đựng nhân vật đa diện ................................................ 101 3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ ...................................................... 106 3.3.1. Ngôn ngữ mang đậm dấu ấn miền núi ............................... 107 3.3.2. Ngôn ngữ đậm chất thơ ..................................................... 111 PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 115 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ những năm 50, 60 của thế kỷ XX, lớp nhà văn là người dân tộc thiểu số đã xuất hiện và trưởng thành với nhiều tác phẩm phản ánh hiện thực cuộc sống ở vùng quê của họ. Một trong các tác giả tiêu biểu đó là nhà văn Triều Ân. Ông là một trong mười sáu nhà văn dân tộc thiểu số đầu tiên có mặt trong cuốn Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (Nxb Văn hóa dân tộc – 1988). Gần 50 năm cầm bút, sáng tác và nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào Triều Ân cũng có những tác phẩm để lại dấu ấn rõ nét trong đời sống văn học và văn hóa dân tộc ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Ông bắt đầu con đường văn học của mình bằng thơ và đoạt giải nhì cuộc thi thơ 1960 – 1961 do Tạp chí Văn nghệ tổ chức với bài thơ Quê ta anh biết chăng?. Bên cạnh thơ, Triều Ân còn viết văn xuôi. Truyện ngắn Bên bờ suối tiên của ông đã được giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Việt Bắc (1962). Đến nay, ngoài 8 tập thơ tiếng Việt và 1 tập thơ tiếng Tày, Triều Ân đã xuất bản năm tập truyện ngắn: Tiếng hát rừng xa (Nxb Văn học – H.1969), Tiếng khèn A Pá (Nxb Tác phẩm mới – H.1980), Như cánh chim trời (Nxb Kim Đồng – 1982), Đường qua đèo mây (Nxb Văn nghệ Cao Bằng – 1988) và Xứ sương mù (Nxb Văn học – H.2000). Vào thập niên chín mươi của thế kỉ XX, Triều Ân lại tìm đến thể loại tiểu thuyết, và chỉ trong vòng mười năm ông đã cho ra mắt ba cuốn tiểu thuyết: Nắng vàng bản Dao (1992), Nơi ấy biên thùy (1994), Dặm ngàn rong ruổi (2000). Những sáng tác tiêu biểu của ông đã được tập hợp trong cuốn Tuyển tập thơ văn Triều Ân (Nxb Văn học – H.2006). Với những hoạt động sáng tạo và nghiên cứu văn học phong phú trên nhiều phương diện, có thể nói Triều Ân là một trí thức, một nhà nghiên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 cứu, một văn nghệ sỹ tiêu biểu của văn học hiện đại các dân tộc thiểu số nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Trong quá trình nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại, một số nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã quan tâm đến mảng văn học dân tộc và miền núi. Song các nhà nghiên cứu, phê bình văn học chủ yếu tập trung vào sáng tác của những nhà văn người Kinh mà tên tuổi đã nổi tiếng, quen thuộc trong đời sống văn học viết về đề tài miền núi. Trong khi đó, một bộ phận không nhỏ các nhà văn người dân tộc thiểu số với những thành tựu và cống hiến xứng đáng cho nền văn học nước nhà, đặc biệt với văn học thiểu số, lại ít được nghiên cứu, giới thiệu rộng rãi. Do vậy việc tìm hiểu nghiên cứu về văn học miền núi, nhất là với những sáng tác do chính các tác giả người miền núi viết trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc gia và quốc tế hiện nay là việc làm có ý nghĩa cấp thiết. Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài: Bản sắc dân tộc trong văn xuôi Triều Ân. 2. Lịch sử vấn đề Trong những năm gần đây, văn học dân tộc và miền núi đã được giới nghiên cứu, phê bình quan tâm chú ý. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã có những ý kiến nhận xét, đánh giá về các tác giả văn học hiện đại người dân tộc thiểu số và mảng văn học miền núi. Trong đó, có khá nhiều công trình, bài viết đề cập đến sự nghiệp sáng tác cùng những đóng góp của nhà văn Triều Ân với văn học dân tộc và miền núi nói riêng và văn học đương đại nói chung. Đặc biệt ở cuộc Hội thảo khoa học về nhà văn Hoàng Triều Ân được tổ chức tại Cao Bằng ngày 12 tháng 11 năm 2007, giới nghiên cứu, phê bình văn học đã có những bản tham luận đánh giá xác đáng về sự nghiệp sáng tác của ông. PGS – TS Đỗ Thị Hảo đã viết: “Thật khó có thể xếp Hoàng Triều Ân hay gọi ông là “nhà” gì? Vì tác phẩm của ông quá nhiều; lại cực kỳ phong phú về thể loại” [50, tr.171]. PGS – TS Lã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Nhâm Thìn lại xác định cụ thể: “Nói đến Hoàng Triều Ân là nói đến “ba nhà” trong một nhà: nhà văn, nhà thơ, nhà sưu tầm, nghiên cứu văn học. Ở “nhà” nào Hoàng Triều Ân cũng có những đóng góp, làm phong phú, làm giàu có thêm nền văn học các dân tộc ít người nói riêng, nền văn học nước nhà nói chung” [50, tr.104 ]. PGS – TS Mai Hương khẳng định: “Triều Ân đến với bạn đọc trước hết bằng những trang thơ, và trong tình cảm của độc giả, anh trước hết là một nhà thơ miền núi ít nhiều có phong cách riêng (...). Triều Ân đã khẳng định được vị trí của mình trong nền thơ chung của dân tộc” [50, tr.44 ]. “Nhưng Triều Ân không chỉ làm thơ – ông còn là một người viết văn xuôi có hạng” [37]. PGS – TS Nguyễn Văn Long khi nghiên cứu về văn xuôi Triều Ân đã đưa ra nhận xét: “Trong lĩnh vực văn xuôi, có thể nói cây bút Hoàng Triều Ân đã có những đóng góp thật đáng kể, làm đầy đặn và phong phú hơn cho sáng tác văn xuôi của các dân tộc thiểu số. Đóng góp ấy càng đáng quý trong tình hình văn học các dân tộc thiểu số vẫn thường mạnh về thơ mà đội ngũ viết văn xuôi còn chưa đông đảo, nếu không nói là còn khá thưa thớt” [50, tr.40]. Bên cạnh sáng tác thơ văn, Triều Ân còn làm công tác nghiên cứu, sưu tầm văn học, văn hóa. Đánh giá về công việc này của Triều Ân, nhà văn Dương Thuấn từng khẳng định: “Có thể nói Triều Ân là một người có công đối với lĩnh vực sưu tầm gìn giữ vốn văn học dân gian của người Tày (...). Muốn nhận định về ông một cách hoàn hảo thì phải đánh giá đúng cả hai mặt sáng tác và sưu tầm nghiên cứu của ông, nếu không sẽ nhìn nhận về Triều Ân một cách phiến diện, không đánh giá xác đáng một con người có nhiều cống hiến như ông” [50, tr.183]. Bên cạnh việc khẳng định vị thế sự nghiệp sáng tác và nghiên cứu của Triều Ân, giới học thuật còn đánh giá cao tính dân tộc và bản sắc văn hoá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 trong các sáng tác của ông. Nhà văn Lâm Tiến khi bàn về bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Triều Ân khẳng định ông là người “hiểu biết sâu rộng và phong phú về văn hóa dân gian, về phong tục tập quán và sinh hoạt đồng bào miền núi”, và “sống trong dân tộc, đồng hành với dân tộc nên con người và cuộc sống đồng bào miền núi được thể hiện trên trang viết thật gần gũi, thân mật” [50, tr.92,93]. Còn PGS – TS Mai Hương đã phát hiện: “dù ở thể loại nào: thơ, truyện ngắn hay tiểu thuyết, đọc trang viết của Triều Ân người đọc đều có cảm giác được khám phá những điều mới mẻ và thú vị (...). Có thể nói sự xuất hiện khá đậm đặc những phong tục, tập tục, những nét quen thuộc trong đời sống sinh hoạt trong tác phẩm cuả Triều Ân, cho thấy công phu đi sâu tìm hiểu và sự thuộc hiểu đời sống, truyền thống văn hóa lâu đời của cộng đồng các dân tộc vùng cao của Triều Ân. Chính những điều đó đã mang đến sự sinh sắc cho trang viết của nhà văn” [50, tr.217,218]. PGS – TS Bích Thu cũng đã ghi nhận: “qua các trang tiểu thuyết của Triều Ân, miền nước non Cao Bằng đã hiển hiện ngày càng rõ nét với cảnh sắc, con người, phong tục tập quán, với những buồn vui, may rủi, tốt xấu, hay dở đan xen trong cộng đồng dân cư, thôn bản các dân tộc ít người mà suy cho cùng, đó cũng là bức tranh thu nhỏ của xã hội Việt Nam đương đại” [50, tr.56]. Có thể tổng kết, đánh giá về bản sắc văn hóa trong sáng tác của Triều Ân bằng ý kiến của GS – TS Mai Quốc Liên: “đó là những cống hiến vô giá không những cho văn hóa dân tộc ông mà cho cả văn hóa dân tộc nước nhà. Ông xứng đáng là nhà văn hóa, người đại diện có thẩm quyền cho văn hóa dân tộc Tày anh em” [22, tr.5,6]. Thế nhưng do nhiều yếu tố khách quan cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về sáng tác văn học của Triều Ân, đặc biệt là ở góc độ bản sắc văn hóa. Do vậy chúng tôi tìm được khoảng trống để thực hiện đề tài. Các ý kiến của người đi trước về sáng tác của Triều Ân nói chung và văn xuôi nói riêng là những gợi dẫn bổ ích và quý báu giúp chúng tôi trong quá trình tiếp cận và triển khai đề tài. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn lựa chọn một số truyện ngắn, tiểu thuyết của Triều Ân in trong tập truyện ngắn Xứ sương mù (Nhà xuất bản Văn học, H.2000) và Tuyển tập thơ văn Triều Ân (Nhà xuất bản Văn học, H.2006) làm đối tượng nghiên cứu cho đề tài 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đi sâu vào nghiên cứu: Bản sắc dân tộc Tày, Dao trong văn xuôi Triều Ân trên các khía cạnh: Phong tục tập quán; nghề thủ công và trang phục; khả năng y học dân tộc; đời sống văn nghệ, tín ngưỡng và đời sống tâm hồn. 4. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm đạt được các mục đích sau: - Có cái nhìn tổng thể và khái quát về bản sắc của dân tộc thiểu số Tày, Dao. Từ đó thấy bản sắc dân tộc được phản ánh trong các tác phẩm văn học viết về đề tài miền núi nói chung và trong văn xuôi của Triều Ân nói riêng. - Chỉ ra những biểu hiện cụ thể bản sắc dân tộc Tày, Dao trong văn xuôi Triều Ân trên phương diện nội dung cũng như nghệ thuật. Qua đó khẳng định thành tựu, đóng góp của Triều Ân với văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng và văn học đương đại nói chung. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Vận dụng phương pháp nghiên cứu tác gia văn học - Phương pháp thống kê hệ thống - Phương pháp so sánh đối chiếu - Phương pháp phân tích, tổng hợp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần thư mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chƣơng một: Vài nét về bản sắc văn hóa dân tộc và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Triều Ân. Chƣơng hai: Những biểu hiện của bản sắc dân tộc trong văn xuôi Triều Ân Chƣơng ba: Một số phương diện nghệ thuật thể hiện bản sắc dân tộc trong văn xuôi Triều Ân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: VÀI NÉT VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN TRIỀU ÂN 1.1. Bản sắc văn hóa dân tộc 1.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa Việt Nam Ở Việt Nam và trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm “Văn hóa”. Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc cho rằng: “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiến thức lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của cá nhân hay các tộc người khác” [46, tr17]. Giáo sư - Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm xác định cụ thể: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [52, tr10]. Nhà nhân loại học phương Tây E.B.Taylo lại định nghĩa: “Văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội” [61, tr8]. Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm văn hóa nhưng các định nghĩa đó vẫn xoay quanh vấn đề tương đối thống nhất: Văn hóa là một trong những giá trị đặc trưng về vật chất, tinh thần được con người sáng tạo ra trong sự phát triển của dân tộc. Trong luận văn “Dấu ấn văn hóa người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 Mông trong tác phẩm “Đồng bạc trắng hoa xòe” và “Vùng biên ải” của Ma Văn Kháng”, tác giả Ma Thị Hiên đã phân tích sâu sắc định nghĩa của Taylo, chúng tôi tán thành và sử dụng định nghĩa này cho luận văn của mình. Bởi đây quả là một khái niệm tóm lược được hầu hết các thành tố, các nội dung tạo thành văn hóa đó là tri thức hiểu biết, là tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, phong tục tập quán, pháp luật … mà con người có được khi sống trong cộng đồng xã hội, và trong mối quan hệ xã hội mang tính tổng hòa. Hơn nữa, như chúng ta đã biết: “Văn hóa và văn học có mối quan hệ mật thiết bởi trước hết văn học có thể coi là một bộ phận nằm trong chỉnh thể của nó là văn hóa, mỗi nhà văn khi sáng tạo tác phẩm của mình đều phải dựa trên một nền tảng rộng lớn là văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Có thể coi văn học là một tấm gương vừa phản chiếu, vừa thu nhỏ bộ mặt văn hóa của từng thời đại vào trong đó. Đặc biệt văn học sẽ kết tinh toàn bộ các phương diện của văn hóa vào trong thế giới nghệ thuật của mình. Sự kết tinh cao độ nhất nằm trong các hình tượng nhân vật và số phận của chúng” [29, tr20]. Như vậy, mỗi quốc gia sẽ có nền văn hóa riêng và mỗi dân tộc cũng sẽ có bản sắc văn hóa của riêng mình. Trên đất nước Việt Nam có hơn 50 dân tộc anh em cùng chung sống, trong nền văn hóa đa dân tộc đó, mỗi dân tộc anh em đều lưu giữ những nét bản sắc văn hóa của riêng dân tộc mình. Vậy bản sắc dân tộc là gì? “Bản sắc là sự lan tỏa tự nhiên trong sắc thái tư duy, ngôn ngữ, trong tâm hồn, trí tuệ, trong phong tục, cung cách, hành vi, ứng xử, trong lề thói, tập tục, trong văn chương, nghệ thuật, và trong toàn bộ các giá trị văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của con người. Bản sắc dân tộc trong mọi sắc thái là sự lan tỏa một cách tự nhiên không ai gò ép được, nhưng nó phải gắn liền với ý thức dân tộc và tự khẳng định qua thử thách của thời gian, nếu không qua giao lưu và mở rộng văn hóa, bản sắc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 sẽ bị biến đổi, mất đi những gì tinh túy nhất của dân tộc. Do đó các nhà nghiên cứu trên thế giới đã từng đưa ra những ý kiến thống nhất gọi bản sắc văn hóa dân tộc là một thứ căn cước, một chứng minh thư của riêng một dân tộc” [60, tr78]. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã từng khẳng định: “Bản sắc là những nét riêng biệt, độc đáo của một dân tộc thể hiện trong nền văn hóa, nghệ thuật trong phong tục tập quán, trong đời sống muôn màu của dân tộc ” [26, tr.11]. Chính bởi xác định được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn hóa, bản sắc dân tộc nên chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là “Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc”. Việc đề cao bản sắc dân tộc là một hành động thiết thực trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước Việt Nam trong thời đại hiện
Tài liệu liên quan