Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt với đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của loài người nói chung, của từng quốc gia và từng địa phương nói riêng. Trong quy hoạch và xây dựng đô thị nếu không cân nhắc, tính toán đến các yếu tố môi trường một cách đầu đủ thì có thể gây ra hậu quả xấu, làm sa sót, suy thoái môi trường, nguy hại đến sức khỏe con người và hạn chế sự phát triển kinh tế xã hội. Chúng ta quan tâm đến môi trường chính là chúng ta quan tâm và bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta.
Trong công tác quản lý rác thải đô thị nói chung, quản lý rác thải đô thị Hà Nội nói riêng, vấn đề môi trường vẫn chưa được người dân nhìn nhận đánh giá một cách đúng đắn. Mọi người dân vẫn được hưởng không khí trong lành, được hưởng các các dịch vụ làm sạch môi trường như hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải do mình thải ra môi trường mà không phải trả hoặc trả một khoản tiền không tương xứng nên mọi người không có ý thức giữ gìn, coi trọng và bảo vệ môi trường. Rác thải được thải ra ngày càng nhiều, rác được vứt bừa bãi không đúng nơi quy định và việc xử lý rác thải vẫn chưa triệt để. Công tác quản lý rác thải vẫn do Nhà nước chịu trách nhiệm và người dân được hưởng những dịch vụ này vô điều kiện. Vấn đề rác thải và xử lý rác thải trở thành một vấn đề bức xúc đối với nước ta nói chung và với thủ đô Hà Nội nói riêng.
Xuất phát từ những vấn đề trên và từ chuyên ngành đào tạo của mình là “Kinh tế và quản lý môi trường”, được sự giúp đỡ của các thầy cô và cán bộ Xí nghiệp môi trường đô thị, tôi chọn đề tài luận văn tốt nghiệp :
“Bước đầu nghiên cứu công tác quản lý rác thải đô thị thành phố Hà Nội dựa trên quan điểm kinh tế môi trường”.
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu công tác quản lý rác thải tại Hà Nội với những vấn đề môi trường xung quanh chóng ta và thực hành trong thực tế những kiến thức mà mình đã được đào tạo trong trường học. Chuyên đề được nghiên cứu trong phạm vi thành phố Hà Nội.
Dựa trên các tư liệu, số liệu thống kê tiến hành nghiên cứu và thực hiện luận văn bằng một số phương pháp sau :
- Phương pháp thu thập tài liệu.
- Phương pháp kế thừa các kết quả có sẵn.
- Phương pháp phân tích tổng hợp, hệ thống hóa thông tin.
- Phương pháp phân tích dự án đầu tư.
Từ đó đề tài nêu lên thực trạng của công tác quản lý rác thải trên địa bàn, dự báo được lượng rác thải trong tương lai gần và đề xuất một số giải pháp cho công tác quản lý. Chuyên đề đã hoàn thành với 4 chương :
- Chương I : Những vấn đề lý luận chung.
- Chương II : Hiện trạng rác thải của thành phố Hà Nội.
- Chương III : Một số đánh giá về công tác quản lý rác thải.
- Chương IV : Các giải pháp cho công tác quản lý rác thải.
Chuyên đề tốt nghiệp là kết quả của quá trình thực tập, quá trình nghiên cứu và thu thập số liệu. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa, các cô chú trong xí nghiệp môi trường đô thị số 1 đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân trọng đến :
PGĐ Nguyễn Mạnh Hùng - Xí nghiệp môi trường đô thị số 1.
GVC Lê Trọng Hoa - Khoa KT - QLMT và ĐT trường ĐHKTQD
Thạc sĩ Huỳnh Thị Mai Dung - Khoa KT - QLMT và ĐT trường ĐHKTQD
Cử nhân Nguyễn Quang Hồng - Khoa KT - QLMT và ĐT trường ĐHKTQD
Do còn hạn chế về trình độ và thời gian nên đề tài vẫn còn có nhiều thiếu sót và nghiên cứu chưa được đầy đủ, tôi rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô và bạn bè để có thể hoàn thiện hơn những nhận định của mình.
Tôi xin cam đoan nội dung báo cáo đã viết là do bản thân thực hiện, không sao chép, cắt ghép các báo cáo hoặc luận văn của người khác, nếu sai phạm tôi xin chịu kỷ luật với nhà trường.
75 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bước đầu nghiên cứu công tác quản lý rác thải đô thị thành phố Hà Nội dựa trên quan điểm kinh tế môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bước đầu nghiên cứu công tác quản lý rác thải đô thị thành phố Hà Nội dựa trên quan điểm kinh tế môi trường
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU2
CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG6
I. Những vấn đề cơ bản về kinh tế môi trường6
1.1. Cơ sở hình thành chuyên ngành kinh tế môi trường6
1.2. Kinh tế môi trường với sự thất bại của thị trường7
1.3. Mối liên quan giữa các thế hệ11
II. Khái niệm chung về quản lý môi trường12
2.1. Khái niệm quản lý môi trường12
2.2. Mục tiêu quản lý môi trường13
2.3. Nội dung quản lý môi trường13
III. Quản lý rác thải14
3.1. Khái niệm rác thải14
3.2. Phân loại rác thải14
3.3. Khái niệm quản lý rác thải14
3.4. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước trong quản lý rác thải15
3.5. Công nghệ xử lý16
CHƯƠNG II : HIỆN TRẠNG RÁC THẢI ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ HÀ NỘI18
I. Giới thiệu chung về Hà Nội18
1.1. Đặc điểm tự nhiên của Hà Nội18
1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội19
II. Nguồn gốc, khối lượng, thành phần rác thải Hà Nội21
2.1. Nguồn gốc phát sinh21
2.2. Khối lượng rác thải21
2.3. Thành phần rác thải23
III. Tình hình quản lý rác thải Hà Nội26
3.1. Cơ quan quản lý rác thải đô thị26
3.2. Công tác thu gom27
3.3. Công tác vận chuyển29
3.4. Phí thu gom rác thải30
3.5. Tình hình xử lý rác thải31
IV. Xử lý rác thải tại bãi Nam Sơn - Sóc Sơn bằng kỹ thuật chôn lấp33
4.1. Tổng quan khu liên hiệp xử lý chất thải Nam Sơn33
4.2. Khu chôn lấp hợp vệ sinh rác thải đô thị35
4.3. Quy trình quản lý và vận hành bãi38
4.4. Nhận xét về công tác xử lý rác thải bằng chôn lấp tại bãi Nam Sơn39
CHƯƠNG III : MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ RÁC THẢI40
I.Đánh giá hiệu quả tài chính của công tác thu gom, vận chuyển rác thải40
1.1. Chi phí tài chính của công tác thu gom và vận chuyển rác thải40
1.2. Xác định số thu phí vệ sinh44
1.3. Hiệu quả tài chính của công tác thu gom, vận chuyển rác thải44
II.Đánh giá đầy đủ lợi Ých xã hội và môi trường của công tác thu gom, vận chuyển rác thải45
2.1. Lợi Ých thực đối với dân cư45
2.2. Những lợi Ých từ công tác quản lý rác thải46
III. Vấn đề xử lý rác thải48
CHƯƠNG IV : CÁC GIẢI PHÁP CHO CÔNG TÁC QUẢN LÝ RÁC THẢI52
I. Mục tiêu của chiến lược quản lý rác thải tại Hà Nội52
II. Giải pháp về tổ chức quản lý rác thải53
III. Giải pháp về công tác vận chuyển55
IV. Giải pháp nhằm giảm lượng rác thải57
4.1. Các công cụ kinh tế58
4.2. Các công cụ pháp lý61
4.3. Thu hồi, tái chế rác thải63
4.4. Giải pháp giáo dục, tuyên truyền65
VI. Giải pháp về phương pháp xử lý66
Kết luận và kiến nghị68
Tài liệu tham khảo70
Phụ lục71
LỜI MỞ ĐẦU
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt với đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của loài người nói chung, của từng quốc gia và từng địa phương nói riêng. Trong quy hoạch và xây dựng đô thị nếu không cân nhắc, tính toán đến các yếu tố môi trường một cách đầu đủ thì có thể gây ra hậu quả xấu, làm sa sót, suy thoái môi trường, nguy hại đến sức khỏe con người và hạn chế sự phát triển kinh tế xã hội. Chúng ta quan tâm đến môi trường chính là chúng ta quan tâm và bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta.
Trong công tác quản lý rác thải đô thị nói chung, quản lý rác thải đô thị Hà Nội nói riêng, vấn đề môi trường vẫn chưa được người dân nhìn nhận đánh giá một cách đúng đắn. Mọi người dân vẫn được hưởng không khí trong lành, được hưởng các các dịch vụ làm sạch môi trường như hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải do mình thải ra môi trường mà không phải trả hoặc trả một khoản tiền không tương xứng nên mọi người không có ý thức giữ gìn, coi trọng và bảo vệ môi trường. Rác thải được thải ra ngày càng nhiều, rác được vứt bừa bãi không đúng nơi quy định và việc xử lý rác thải vẫn chưa triệt để. Công tác quản lý rác thải vẫn do Nhà nước chịu trách nhiệm và người dân được hưởng những dịch vụ này vô điều kiện. Vấn đề rác thải và xử lý rác thải trở thành một vấn đề bức xúc đối với nước ta nói chung và với thủ đô Hà Nội nói riêng.
Xuất phát từ những vấn đề trên và từ chuyên ngành đào tạo của mình là “Kinh tế và quản lý môi trường”, được sự giúp đỡ của các thầy cô và cán bộ Xí nghiệp môi trường đô thị, tôi chọn đề tài luận văn tốt nghiệp :
“Bước đầu nghiên cứu công tác quản lý rác thải đô thị thành phố Hà Nội dựa trên quan điểm kinh tế môi trường”.
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu công tác quản lý rác thải tại Hà Nội với những vấn đề môi trường xung quanh chóng ta và thực hành trong thực tế những kiến thức mà mình đã được đào tạo trong trường học. Chuyên đề được nghiên cứu trong phạm vi thành phố Hà Nội.
Dựa trên các tư liệu, số liệu thống kê tiến hành nghiên cứu và thực hiện luận văn bằng một số phương pháp sau :
- Phương pháp thu thập tài liệu.
- Phương pháp kế thừa các kết quả có sẵn.
- Phương pháp phân tích tổng hợp, hệ thống hóa thông tin.
- Phương pháp phân tích dự án đầu tư.
Từ đó đề tài nêu lên thực trạng của công tác quản lý rác thải trên địa bàn, dự báo được lượng rác thải trong tương lai gần và đề xuất một số giải pháp cho công tác quản lý. Chuyên đề đã hoàn thành với 4 chương :
- Chương I : Những vấn đề lý luận chung.
- Chương II : Hiện trạng rác thải của thành phố Hà Nội.
- Chương III : Một số đánh giá về công tác quản lý rác thải.
- Chương IV : Các giải pháp cho công tác quản lý rác thải.
Chuyên đề tốt nghiệp là kết quả của quá trình thực tập, quá trình nghiên cứu và thu thập số liệu. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa, các cô chú trong xí nghiệp môi trường đô thị số 1 đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân trọng đến :
PGĐ Nguyễn Mạnh Hùng - Xí nghiệp môi trường đô thị số 1.
GVC Lê Trọng Hoa - Khoa KT - QLMT và ĐT trường ĐHKTQD
Thạc sĩ Huỳnh Thị Mai Dung - Khoa KT - QLMT và ĐT trường ĐHKTQD
Cử nhân Nguyễn Quang Hồng - Khoa KT - QLMT và ĐT trường ĐHKTQD
Do còn hạn chế về trình độ và thời gian nên đề tài vẫn còn có nhiều thiếu sót và nghiên cứu chưa được đầy đủ, tôi rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô và bạn bè để có thể hoàn thiện hơn những nhận định của mình.
Tôi xin cam đoan nội dung báo cáo đã viết là do bản thân thực hiện, không sao chép, cắt ghép các báo cáo hoặc luận văn của người khác, nếu sai phạm tôi xin chịu kỷ luật với nhà trường.
Hà Nội, ngày tháng năm 2003
Ký tên
Hoàng Thu Hà
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KINH TẾ MÔI TRƯỜNG
1.1. Cơ sở hình thành chuyên ngành kinh tế môi trường
Con người trải qua hàng ngàn năm phát triển bằng các hoạt động sản xuất và các hoạt động phát triển kinh tế đã tiến bộ, ổn định và phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Trong các hoạt động của mình con người luôn phải dựa vào tự nhiên, dựa vào môi trường. Trong giới hạn của mình môi trường có khả năng tự phục hồi và lại tiếp tục phục vụ con người. Nhưng các hoạt động của con người lại làm ảnh hưởng đến chất lượng môi trường, nếu làm vượt mức giới hạn tự phục hồi của môi trường thì môi trường sẽ tác động trở lại và làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống con người. Con người buộc phải quan tâm đến môi trường khi tiến hành các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của mình.
Mối quan tâm đến môi trường tự nhiên bao trùm khắp mọi tầng lớp dân cư. Chưa bao giờ thế giới lại ý thức sâu sắc đến môi trường như hiện nay. Toàn xã hội đang quan tâm đến giải quyết các vấn đề môi trường. Tuy nhiên trong xã hội phân hóa rất sâu sắc các vấn đề môi trường và hình thành hai nhóm đối lập nhau. Đó là “những người ủng hộ phát triển” cho rằng cần phải phát triển kinh tế rồi mới có thể ổn định môi trường và “những người ủng hộ bảo tồn” lại cho rằng môi trường đang bị ô nhiễm và suy thoái nghiêm trọng thậm chí một số người còn đi đến kết luận phải ngừng tất cả mọi hoạt động kinh tế.
Cả hai quan niệm trên đều mang tính chất cực đoan. Rõ ràng chúng ta không thể đi theo mét trong hai quan điểm đó. Nếu chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế thì có thể gây thiệt hại không thể bù đắp được đối với môi trường tự nhiên và môi trường tự nhiên sẽ tác động trở lại làm nền kinh tế mất khả năng tăng trưởng. Ngược lại nếu ngừng các hoạt động kinh tế gây ảnh hưởng đến môi trường thì cũng có thể gây ra suy thoái môi trường. Bởi nếu chúng ta giảm các hoạt động kinh tế sẽ dẫn đến việc tăng thất nghiệp và nghèo đói mà nghèo đói cũng là một nguyên nhân gây suy thoái môi trường.
Xuất phát từ các vấn đề trên, chuyên ngành kinh tế môi trường ra đời. Kinh tế môi trường không đề cao quan điểm nào mà đặt ngang nhau cả hai mục tiêu chiến lược : Sự tăng trưởng kinh tế (EG) và chất lượng môi trường (EQ) với mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững. Nói cách khác trong quyết định lựa chọn có tính chiến lược ở tất cả các cấp độ xã hội, một bước không thể thiếu và bá qua được là xem xét ảnh hưởng của môi trường trong quá trình ra quyết định.
1.2. Kinh tế môi trường với sự thất bại của thị trường
1.2.1. Cơ chế giá cả trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố cung và cầu hàng hóa chịu sự tác động của cơ chế giá. Nó định ra cho thị trường những quyết định cơ bản : Cần phải sản xuất hàng hóa nào, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào và bán cho ai. Các hoạt động của thị trường được thể hiện theo mô hình sau :
Gi¸ c¶ (P)
Sè lîng (Q)
§êng cung thÞ trêng
§êng cÇu thÞ trêng
0
Q0
P0
E
Đường cầu thị trường thể hiện giá mà xã hội sẵn sàng trả để có thêm một đơn vị (cận biên). Khi giá cả đối với một đơn vị hàng hóa giảm thì lượng hàng mua tăng lên. Thông thường đường cầu được mô tả như một chu trình sẵn sàng thanh toán (WTP)
Đường cung thị trường mô tả chi phí sản phẩm cận biên nghĩa là chi phí để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm. Khi giá cả của hàng hóa giảm thì lượng cung đối với hàng hóa đó sẽ giảm.
Khi hàng hóa được bán ra ở mức giá mà cung và cầu thị trường cân bằng nhau có nghĩa là thị trường hoạt động một cách hiệu quả, tổng lợi Ých cho toàn xã hội là tối đa. Ngược lại nếu hàng hoá được bán ra ở mức giá nhỏ hơn hoặc cao hơn mức giá cân bằng sẽ dẫn đến sự thất bại của thị trường, xã hội mất đi một phần lợi Ých.
1.2.2. Quyền sở hữu và thất bại thị trường
Thị trường sẽ hoạt động một cách hiệu quả đối với các loại hàng hóa nếu các hàng hóa bán ra thị trường đáp ứng được những điều kiện sở hữu cá nhân. Đó là :
- Phải xác định rõ quyền đối với người sở hữu nghĩa là phải xác định rõ sở hữu cái gì và sở hữu bao nhiêu. Hàng hóa có thể bị chiếm đoạt và sử dụng nếu không xác định rõ quyền cho người hiện đang sở hữu. Quy định này được xem như là một điều kiện bắt buộc.
- Quyền chuyển nhượng nghĩa là người khác có thể sử dụng hàng hóa khi người chủ sở hữu tự nguyện chuyển nhượng cho họ. Quy đinh này được xem như là điều kiện chuyển nhượng.
- Tất cả các lợi Ých và chi phí cho việc sử dụng hàng hóa này phải được người chủ sở hữu của nó quyết định. Đây là điều kiện độc quyền. Những người khác chỉ có thể quyết định lợi Ých và chi phí sau khi đã thoả mãn điều kiện có thể chuyển nhượng.
Các quy định này chỉ thỏa mãn đối với các hàng hóa thông thường trên thị trường, còn đối với hàng hóa môi trường các điều kiện này thường bị vi phạm. Việc không đưa ra chỉ giới rõ ràng giữa nhiều loại hàng hóa môi trường dẫn đến điều kiện thi hành bị vi phạm, quyền sở hữu đối với hàng hóa môi trường không được xác lập. Điều kiện chuyển nhượng chỉ có thể thỏa mãn nếu nảy sinh động cơ về chuyển nhượng. Động cơ đó chính là giá cả. Đối với nhiều loại hàng hóa môi trường, khả năng chuyển nhượng là không thể có chính vì giá cả của hàng hóa không được xác định đúng đắn. Ngay cả khi một người sở hữu một hồ nước hay một dòng sông, điều đó cũng không thể ngăn chặn kẻ khác tước đoạt đi một số lợi Ých, Ýt nhất là về phong cảnh chẳng hạn. Rút cuộc là cần phải chú ý cả ba điều kiện liên quan đến nhau này. Nếu một trong ba điều kiện bị vi phạm thì các điều kiện còn lại cũng bị vi phạm theo.
1.2.3. Hàng hóa công cộng
Hàng hóa công cộng là một loại hàng hóa mà ở đó sự tiêu thụ của mỗi người có thể cân bằng với số hàng hóa sẵn có. Mỗi khi một hàng hóa công cộng được cung cấp, thì mỗi người có thể tiêu dùng một lượng hàng hóa cũng bằng một lượng hàng hóa có sẵn mà không loại trừ bất cứ một ai khác tiêu dùng lượng hàng hóa sẵn có đó.
Hàng hóa công cộng có hai quyền sở hữu quan trọng là :
- Không loại trừ : Một khi hàng hóa được cung cấp, nó không thể từ chối cung cấp hàng hóa sẵn có đó cho bất cứ ai.
- Chi phí cận biên bằng không : Quyền sở hữu này được rót ra từ quyền sở hữu thứ nhất là chúng ta không thể từ chối cung cấp hàng hóa sẵn có đó cho bất cứ ai, khi mà giá cung cấp hàng hóa đến tay người tiêu thụ thêm vào là bằng không.
Hầu hết các hàng hóa môi trường gần như là hàng hóa công cộng hay là hàng hóa hỗn hợp. Nếu đưa sở hữu hàng hoá công cộng lên một điểm nào đó mà nếu vượt qua điểm đó thì hàng hoá sẽ trở thành hàng hoá cá nhân. ở giai đoạn đầu của việc tiêu thụ hàng hoá sự tiêu dùng thêm của những người khác không làm ảnh hưởng đến người khác, chi phí cận biên là bằng không. Nhưng đến một điểm ngưỡng nào đó sự tiêu dùng thêm sẽ làm cho chi phí cận biên trở thành dương và có xu hướng lên đến vô cùng, sự tiêu dùng hàng hóa công cộng trở thành tắc nghẽn.
Như vậy việc sở hữu hàng hóa công cộng đã gây ra thất bại thị trường. Khi quyền sở hữu không xác định được rõ ràng khiến cho hàng hóa này không có giá cả, giá cả thị trường bằng không. Khi tiêu dùng một hàng hóa mà không có giá sẽ thúc đẩy việc sử dụng quá mức, dẫn đến suy thoái và làm hư hại tài nguyên thiên nhiên.
Nguyên nhân thứ hai là hàng hóa công cộng có đặc tính chi phí cận biên bằng không có nghĩa là khi tiêu thụ thêm một đơn vị hàng hóa mà vẫn không phải trả tiền thể hiện một sự thất bại thị trường. Sở dĩ như vậy vì người ta có xu hướng đánh giá thấp WTP đối với hàng hóa công cộng và thêm nữa là vì người ta cho rằng một khi nó được cung cấp, người ta có quyền tự do sử dụng nó. Vấn đề này thường được đề cập đến như việc “cưỡi ngựa không mất tiền”.
1.2.4. Ngoại ứng
Ngoại ứng là những tác động đến các lợi Ých hay các chi phí nằm bên ngoài thị trường.
Một ngoại ứng thường tạo ra những tác động qua lại giữa hai hoặc nhiều nhóm người và điều đó không thể nào định giá được. Đó là những chi phí hay lợi Ých của một người nào đó tạo ra cho người khác mà những chi phí và lợi Ých này không được tính đến trên thị trường.
Có hai loại ngoại ứng :
- Ngoại ứng tích cực : Ngoại ứng tích cực nảy sinh khi hoạt động của một bên làm lợi cho bên khác. Chẳng hạn, một người sửa sang lại ngôi nhà của mình, trồng vườn hoa đẹp thì tất cả những người láng giềng đều có lợi, dù cho chủ nhân không tính đến những lợi Ých đó của xóm giềng. Mô hình sau sẽ minh họa cho vấn đề này.
Chi phÝ
(P)
Sè lîng (Q)
MC
MBS
MBC
0
Q1
Q2
P2
P1
- Ngoại ứng tiêu cực : Ngoại ứng tiêu cực nảy sinh khi hoạt động của một bên áp đặt chi phí cho bên khác.
Giả sử có 1 hoạt động gây ra những tác động xấu đến môi trường.
Gi¸ hoÆc chi phÝ (P)
S¶n lîng (Q)
MSC = MPC + MEC
MPC
MEC
§êng cÇu thÞ trêng
0
Q1
Q2
P2
P1
Giá cả trên thị trường được xem xét trên quan điểm đường cung và đường cầu thị trường. Đường cung mà không tính tới ảnh hưởng của ngoại ứng gọi là chi phí cận biên cá nhân (MPC) bởi vì nó chỉ bao gồm chi phí sinh ra bởi một nhóm người. Giá cả được tính trên thị trường được xác định (P1,Q1) bằng chi phí cận biên cá nhân gây nên sự thất bại trên thị trường do giá cả không được xác định đúng đắn. Hoạt động này gây ra một ngoại ứng gọi là chi phí cận biên môi trường (MEC). Việc khắc phục các ngoại ứng nghĩa là tính cả giá cả gây ra bởi các ngoại ứng vào chi phí cho xã hội (MSC) sẽ dẫn đến sản lượng giảm đi và giá cả tăng lên. Việc xác định giá cả ở mức (P2,Q2) được gọi là mức hiệu quả mà ở đó giá của sản phẩm bằng chi phí cận biên xã hội sản xuất ra chóng.
1.3. Mối liên quan giữa các thế hệ
Việc quản lý hàng hoá môi trường liên quan đến 3 chỉ tiêu xã hội :
- Sự tăng trưởng kinh tế (EG).
- Chất lượng môi trường (EQ).
- Mối liên quan giữa các thế hệ (IGC).
Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế (EG) là làm tối đa thu nhập quốc dân, đó là sản lượng hàng hoá và thu nhập quốc gia. Đối với chất lượng môi trường (EQ) cần phải bảo vệ môi trường và có những biện pháp làm tăng chất lượng môi trường. Chúng ta có thể xác định chỉ tiêu EQ dựa trên : Chỉ tiêu chất lượng môi trường là chỉ tiêu nhằm phục hồi, tăng cường và bảo tồn chất lượng tài nguyên tự nhiên và các hệ sinh thái. Theo nội dung này, chỉ tiêu về mối liên quan giữa các thế hệ bắt nguồn từ những mâu thuẫn giữa các thế hệ về nhu cầu đối với tài nguyên và nhu cầu hưởng thụ môi trường sống trong lành, các hệ sinh thái. Ở hiện tại chúng ta chỉ quan tâm đến tăng trưởng kinh tế làm giảm tối đa hoá chi phí và tăng tối đa lợi Ých của mình mà không cần quan tâm đến chất lượng môi trường. Điều này sẽ làm cho chất lượng môi trường bị suy thoái và để lại hậu quản cho thế hệ mai sau. Những ô nhiễm, những suy thoái môi trường, sự cố môi trường hay như sự giảm và thậm chí cạn kiệt các nguồn tài nguyên sẽ gây ra những chi phí mà chúng ta không thể tính hết được. Những chi phí này sẽ do các thế hệ mai sau phải gánh chịu.
Giữa các chỉ tiêu EQ và IGC có mối liên hệ qua lại, bổ sung cho nhau. Đó là việc bảo vệ các nguồn tài nguyên môi trường cũng chính là đảm bảo được tính sẵn có của chúng cho thế hệ tương lai. Tuy nhiên hai chỉ tiêu này lại thường mâu thuẫn với chỉ tiêu EG.
II. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
2.1. Khái niệm quản lý môi trường
Sự quản lý môi trường là một tất yếu khách quan nhằm giữ gìn và bảo vệ môi trường và cũng chính là bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta.
“Quản lý môi trường là bằng mọi biện pháp thích hợp tác động và điều chỉnh các hoạt động của con người nhằm làm hài hoà các mối quan hệ giữa phát triển và môi trường sao cho vừa thoả mãn nhu cầu của con người vừa đảm bảo được chất lượng của môi trường và không quá khả năng chịu đựng của hành tinh chóng ta”.
2.2. Mục tiêu quản lý môi trường
Thực chất của quản lý môi trường là quản lý con người trong các hoạt động phát triển và thông qua đó sử dụng có hiệu quả nhất mọi tiềm năng và cơ hội của hệ thống môi trường.
Mục tiêu chung, lâu dài và nhất quán của quản lý môi trường là nhằm góp phần tạo lập sự phát triển bền vững.
2.3. Nội dung quản lý môi trường
- Quản lý môi trường được tiến hành ở cả cấp vĩ mô (quản lý Nhà nước) và cấp vi mô (doanh nghiệp, hộ gia đình) gồm các nội dung sau :
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường.
- Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch phòng, chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường.
- Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, công trình có liên quan đến bảo vệ môi trường.
- Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường.
- Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở sản xuất, kinh doanh.
- Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường.
- Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường, giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
III. QUẢN LÝ RÁC THẢI
3.1. Khái niệm rác thải
Chất thải là chất được loại ra trong quá trình sản xuất và sinh hoạt của con người hoặc các hoạt động khác. Dựa theo nguồn gốc hình thành chất thải bao gồm : Chất thải công nghiệp, chất thải nông nghiệp, chất thải y tế, chất thải sinh hoạt… Chất thải sinh hoạt thường được gọi là rác thải.
Rác thải sinh hoạt là các rác thải liên quan đến hoạt động của con người ở các khu dân cư, các cơ quan, trường học, các cửa hàng dịch vụ, thương mại, du lịch…
3.2. Phân loại rác thải
Việc phân loại rác thải nhằm mục đích tuỳ theo yêu cầu mà quản lý tốt hơn các chất thải. Tuy nhiên việc phân loại này chỉ có tính chất tương đối.
3.2.1. Phân loại t