sau đại hội Đảng lần thứ VI đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới sâu và toàn diện, đã tạo ra những bước chuyển biến mạnh mẽ trong toàn bộ nền kinh tế xã hội, đã đạt được kết quả ban đầu hết sức khả quan trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó sự đổi mới trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại có một vị trí hết sức quan trọng. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, phấn đấu vì hoà bình phát triển trên cơ sở hiểu biết, hợp tác bình đẳng tôn trọng lẫn nhau đôi bên cùng có lợi”. Kết quả là trong những năm gần đây quan hệ buôn bán ngoại thương đã phát triển mạnh mẽ, kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên tới năm 1999 Việt Nam chính thức đặt quan hệ thương mại với 165 nước trên thế giới với tổng kim ngạch trên 20 tỷ USD. Chóng ta đã từng bước tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, tiếp cận với nền kinh tế thế giới và từng bước trở thành mắt xích trong guồng máy kinh tế thế giới.
Ta biết rằng để nâng cao hiệu quả công tác xuất nhập khẩu cần phải tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu nhằm cân bằng cán cân thanh toán và phát triển tới xuất siêu. Nhưng để cho nền kinh tế quốc dân phát triển và tăng trưởng vững chắc thì không thể coi nhẹ hoạt động nhập khẩu. Nhập khẩu cho phép khai thác tối đa thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học kỹ thuật, đồng thời tranh thủ được thế mạnh của nền kinh tế thế giới. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nghèo làn, lạc hậu, việc nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc công nghệ, thiết bị phục vụ quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước là rất quan trọng.
Cũng như nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu khác khi mới bước vào lĩnh vực xuất nhập khẩu trong cơ chế thị trường. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do tính chất và đặc điểm của hoạt động nhập khẩu nên PACKEXIM không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế.
Chính vì, vậy việc hoàn thiện hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động nhập khẩu luôn là mối quan tâm của lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty.
Là mét sinh viên thực tập tại công ty, đứng trước mối quan tâm chung đó với đề tài “ Các biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì” tôi muốn góp một phần nhỏ vào việc phân tích hoạt động nhập khẩu của công ty từ đó tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm hạn chế rủi ro trong nhập khẩu tiến tới hoàn thiện công tác nhập khẩu và đem lại hiệu quả kinh tế.
Với những nội dung trên cấu trúc của luận văn gồm những nội dung chính sau.
Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu tại công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì - Hà Nội.
Chương III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì Hà Nội.
Do thời gian và sự hiểu biết còn hạn chế trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn không thể tránh khỏi sai sót. Rất mong được sự góp ý của tất cả thầy cô cùng các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô cùng các chú ở công ty PACKEXIM đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này, đặc biệt là thầy giáo Trần Văn Bão
88 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
Lời mở đầu
s
au đại hội Đảng lần thứ VI đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới sâu và toàn diện, đã tạo ra những bước chuyển biến mạnh mẽ trong toàn bộ nền kinh tế xã hội, đã đạt được kết quả ban đầu hết sức khả quan trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó sự đổi mới trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại có một vị trí hết sức quan trọng. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, phấn đấu vì hoà bình phát triển trên cơ sở hiểu biết, hợp tác bình đẳng tôn trọng lẫn nhau đôi bên cùng có lợi”. Kết quả là trong những năm gần đây quan hệ buôn bán ngoại thương đã phát triển mạnh mẽ, kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên tới năm 1999 Việt Nam chính thức đặt quan hệ thương mại với 165 nước trên thế giới với tổng kim ngạch trên 20 tỷ USD. Chóng ta đã từng bước tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, tiếp cận với nền kinh tế thế giới và từng bước trở thành mắt xích trong guồng máy kinh tế thế giới.
Ta biết rằng để nâng cao hiệu quả công tác xuất nhập khẩu cần phải tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu nhằm cân bằng cán cân thanh toán và phát triển tới xuất siêu. Nhưng để cho nền kinh tế quốc dân phát triển và tăng trưởng vững chắc thì không thể coi nhẹ hoạt động nhập khẩu. Nhập khẩu cho phép khai thác tối đa thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học kỹ thuật, đồng thời tranh thủ được thế mạnh của nền kinh tế thế giới. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nghèo làn, lạc hậu, việc nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc công nghệ, thiết bị phục vụ quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước là rất quan trọng.
Cũng như nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu khác khi mới bước vào lĩnh vực xuất nhập khẩu trong cơ chế thị trường. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do tính chất và đặc điểm của hoạt động nhập khẩu nên PACKEXIM không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế.
Chính vì, vậy việc hoàn thiện hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động nhập khẩu luôn là mối quan tâm của lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty.
Là mét sinh viên thực tập tại công ty, đứng trước mối quan tâm chung đó với đề tài “ Các biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì” tôi muốn góp một phần nhỏ vào việc phân tích hoạt động nhập khẩu của công ty từ đó tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm hạn chế rủi ro trong nhập khẩu tiến tới hoàn thiện công tác nhập khẩu và đem lại hiệu quả kinh tế.
Với những nội dung trên cấu trúc của luận văn gồm những nội dung chính sau.
Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu tại công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì - Hà Nội.
Chương III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại công ty sản xuất và xuất nhập khẩu bao bì Hà Nội.
Do thời gian và sự hiểu biết còn hạn chế trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn không thể tránh khỏi sai sót. Rất mong được sự góp ý của tất cả thầy cô cùng các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô cùng các chú ở công ty PACKEXIM đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này, đặc biệt là thầy giáo Trần Văn Bão.
Hà nội, ngày 12 tháng 5 năm 2000.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Huyến.
Chương I
Lý luận chung về hoạt động kinh doanh nhập khẩu
I. Sự cần thiết phải có thương mại quốc tế
1. Khái niệm thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
Trong cuộc sống, nhu cầu về hàng hoá của con người là rất lớn, nó tăng theo sự phát triển của xã hội loài người. Như vậy, tất yếu mỗi thành viên trong xã hội đều phải có nhu cầu trao đổi mua bán hàng hoá với người khác và ở đây bắt đầu nảy sinh quan hệ thương mại. Trao đổi và lưu thông hàng hoá phát triển càng cao hơn, hiện đại hơn. Từ trao đổi hàng hoá, dịch vụ cho nhau trong một lãnh thổ tiến tới đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Sù trao đổi mua bán ở đây được coi là hoạt động thương mại quốc tế. Do có sự khác biệt nên khuyến khích các quốc gia chuyên môn hoá những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện tự nhiên, nhân lực của mình, bán hàng hoá của mình mua hàng hoá của người khác.
2.Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển của mỗi quốc gia
Cơ sở của thương mại quốc tế là lợi thế so sánh giữa các quốc gia về các yếu tố như lao động, công nghệ, tài nguyên... thương mại quốc tế cho phép chúng ta có thể mua được hàng hoá ở thị trường có mức giá rẻ và bán hàng hóa tại thị trường có mức cao hơn để thu lợi nhuận do chênh lệch giá. Ngoài ra người ta còn lợi dụng lý thuyết lợi thế so sánh để thực hiện trao đổi mua bán hàng hoá mà tất cả các bên tham gia đều tìm thấy lợi cho mình trong đó.
Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo cho rằng “nếu mỗi nước chuyên môn hoá và sản suất các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối (hay có hiệu quả sản suất cao nhất) thì thương mại có lợi cho cả hai bên”.
Như vậy, việc chuyên môn hoá sẽ có lợi cho tất cả các nước không phân biệt nước phát triển hay kém phát triển, chuyên môn hoá gắn liền với thương mại quốc tế sẽ làm cho hàng hoá của quốc gia có ưu thế trên thế giới và hàng hoá sẽ bán ra nhiều hơn. Đồng thời, trên thị trường quốc tế các nước khác có thể mua những hàng hoá mà không thể sản suất được, sản suất không hiệu quả hoăc sản suất chưa đáp ứng được nhu cầu.
Học thuyết Hecsher- Ohlin: Bản chất của học thuyết này được căn cứ vào sự khác biệt về tính phong phú và giá cả tương đối cuả các yếu tố sản suất để quy về sự khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá. Học thuyết đựợc phát biểu như sau: “các nước sẽ có lợi thế so sánh trong việc sản suất hàng hoá sử dụng nhiều hơn các yếu tố sản suất mà nước đó có và xuất khẩu hàng hoá này để nhập khẩu những hàng hoá khác sử dụng những nhân tố sản suất mà nước đó khan hiếm hơn”. Để hiểu cặn kẽ hơn vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế ta sử dụng đồ thị để phân tích:
Trường hợp: Sản suất cố định
Hµng
ho¸ X
Hµng ho¸ Y
y1
y2
A
B
Trường hợp: Sản suất thay đổi
Hµng ho¸ y
Hµng ho¸ x
y1
y2
t’
t’
t”
t”
F
A
Như vậy, hoạt động nhập khẩu dẫn đến sự tăng lên trong tiêu dùng của những loại hàng hoá có thể được tiêu dùng bằng hai cách:
Thứ nhất (trường hợp sản suất cố định): Cho phép khối lượng hàng tiêu dùng khác với số lượng hàng sản suất được thể hiện ở đồ thị là: Sản suất mặc dù cố định ở điểm A song có thể tiêu dùng ở điểm B nhờ bán đi y1 y2 sản phẩm y và nhập khẩu x1-x2 sản phẩm x.
Thứ hai (sản suất thay đổi): Cho phép một sự thay đổi có lợi trong sản suất, đất nước có thể sử dụng nhiều loại hàng hoá có giá trị trên thị trường. Điều này có thể biểu diễn bằng sự thay đổi sản suất từ điểm A sang điểm D bằng cách đó tăng chuyên môn hoá sản suất sản phẩm y của đất nước.
Đối với bất kỳ điểm nào trên đường biểu diễn khả năng tiêu dùng t”t” có điểm tương ứng trên t’t’ cho phép tiêu dùng nhiều hơn cả hai loại sản phẩm, nghĩa là so sánh điểm B và điểm F. Khi việc sản xuất sản phẩm y tăng lên và sản phẩm x giảm xuống, đất nước có thể chuyển tới những điểm như F bằng cách sản xuất nhiều hơn hàng y là loại hàng hoá mà đất nước có lợi thế so sánh và đổi lấy sản phẩm x bằng con đường kinh doanh xuất nhập khẩu.
Thương mại quốc tế có vai trò to lớn trong việc phát triển thị hiếu dân cư của mỗi nước xoá bỏ nhanh chóng phương thức kinh doanh lạc hậu. Các nhân tố mới tiến bộ luôn xảy ra trong môi trường kinh doanh quốc tế. Từ đó có thể nghiên cứu lùa chọn phương thức kinh doanh tiến bộ có hiệu quả nhất. Góp phần thay đổi tư duy kinh doanh, triết lý kinh doanh, đạo đức kinh doanh.
Nhờ có thương mại quốc tế mà cơ sở vật chất của sản xuất có sự chuyển dịch theo hướng tích cực đó là tăng tính kỹ thuật chất xám công nghệ.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, trình độ kinh tế còn lạc hậu, thiếu vốn kinh doanh, kỹ thuật công nghệ, khả năng trình độ quản lý và thị trường tiêu thụ. Nhưng ta có tiềm năng tài nguyên phong phú và lực lượng lao động dồi dào. Vì vậy, cần khai thác triệt để tiềm năng và thế mạnh của nước ta trên cơ sở đó tiến hành phân công lao động xã hội khai thác tiềm năng sản suất hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu cũng như tranh thủ thế mạnh về hàng hoá, công nghệ, vốn của nước ngoài phục vụ cho quá trình sản suất, tiêu dùng trong nước nhằm rút ngắn khoảng cách về kinh tế nước ta với các nước phát triển.
Tóm lại thương mại quốc tế góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Xét trên góc độ một quốc gia thì hoạt động thương mại quốc tế chính là hoạt động ngoại thương.
II. Hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế quốc dân
Có thể hiểu nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ nhu cầu trong nước hoặc tái suất nhằm mục đích thu lợi nhuận. Thương mại quốc tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng rất quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Chẳng thế mà các nhà kinh tế thuộc trường phái trọng thương đã nghiên cứu và đưa ra học thuyết mà đến nay nó vẫn còn giá trị rất lớn. Tuy nhiên, cũng có một số quốc gia đã từng xây dựng một nền kinh tế tự cấp tự túc không cần quan hệ với các nước khác. Đây là ý tưởng sai lầm. Thực tế đã chứng minh không có một quốc gia nào dù rộng lớn và phát triển mạnh mẽ, cường thịnh như Mỹ cũng không đủ nhân tài vật lực để đáp ứng tất cả các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Nếu có đáp ứng được thì hiệu quả cũng không cao.
Vì vậy, nhập khẩu sẽ là nhân tố giúp tháo gỡ khó khăn về công nghệ, vốn, trình độ quản lý… Xu thế nhập khẩu bổ xung sẽ là tất yếu thông qua nhập khẩu để thay đổi và từng bước hoàn thiện có cấu tiêu dùng của dân cư theo hướng hiện đại hoá đồng thời nâng cao trình độ trong nước.
1. Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. Trong xu thế hội nhập quốc tế thì nhập khẩu là chiếc cầu nối nền kinh tế quốc gia với thế giới và ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân cũng như đối với doanh nghiệp.
1. 1. Vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
- Nhập khẩu là con đường để chuyển giao công nghệ quan trọng nhất là đối với các nước phát triển. Nó góp phần thúc đẩy sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí và thời gian cải thiện trình độ phát triển kinh tế trong xã hội.
- Khi hàng nhập khẩu vào một quốc gia sẽ tạo ra sự cạnh tranh với hàng nội địa của quốc gia đó. Điều này buộc các nhà sản xuất kinh doanh trong nước phải cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Qua đó có thể thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Đồng thời nhập khẩu còn góp phần đáng kể vào phá bỏ tình trạng độc quyền, phá bỏ nền kinh tế đóng, tự cấp tự túc.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu. Điều này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài đặc biệt là nước nhập khẩu.
1.2. Vai trò của nhập khẩu đối với doanh nghiệp
Hoạt động nhập khẩu giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp diễn ra bình thường. Trước hết sản xuất cần đến các máy móc trang thiết bị ban đầu cũng như bổ xung, cải tiến trong quá trình sản xuất mà giá thành cao do đó cần phải nhập khẩu. Hàng hoá nhập khẩu cũng chính là một nguồn hàng quan trọng cung cấp cho hoạt động kinh doanh. Khai thác tốt nguồn này sẽ đem lại sự ổn định cũng như hiệu quả cho hoạt động kinh doanh.
Là một hoạt kinh doanh, nhập khẩu đảm bảo mục tiêu của doanh nghiệp. Hàng hoá nhập khẩu với chất lượng cao, vật tư đầu vào làm cho sản phẩm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giữ được uy tín với khách hàng nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thương trường (tuy nhiên để đảm bảo cho cạnh tranh có hiệu quả doanh nghiệp phải tính toán kỹ chi phí bỏ ra).
Nhập khẩu góp phần mở rộng quan hệ của doanh nghiệp cả với bạn hàng trong nước và nước ngoài. Doanh nghiệp có thể tìm đối tác liên doanh liên kết trong sản xuất kinh doanh.
Vai trò quan trọng của nhập khẩu là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, nhập khẩu như thế nào vẫn là vấn đề nan giải. Nếu nhập khẩu lan tràn sẽ làm suy yếu nền sản xuất trong nước. Vì vậy, cần phải có chính sách nhập khẩu hợp lý để khai thác triệt để lợi Ých của nhập khẩu. Nước ta trước đây quan hệ chủ yếu là viện trợ và mua bán theo nghị định thư. Sự tham gia quá sâu của Nhà nước làm mất đi sự linh hoạt trong hoạt động nhập khẩu. Cho tới nay tuy mới chỉ trong thời gian ngắn chuyển sang cơ chế thị trường với lượng hàng hoá nước ngoài rất phong phú tạo ra sự cạnh tranh với hàng nội địa thúc đẩy các doanh nghiệp nân cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của mình trên thị trường trong nước và thế giới.
Để phát huy vai trò nhập khẩu cần phải:
- Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế và hoạt động dưới sự quản lý của nhà nước.
- Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động nhập khẩu tức là tránh việc chỉ rõ mục đích chạy theo lợi nhuận mà bất chấp bỏ qua lợi Ých xã hội.
- Đảm bảo nguyên tắc ngoại thương và quan hệ kinh tế với nước ngoài trong hoạt động phải chú ý tạo uy tín và quan hệ không chỉ với các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng cùng có lợi.
2. Các hình thức nhập khẩu chủ yếu
Hoạt động nhập khẩu trong thực tế rất đa dạng, diễn ra dưới nhiều hình thức. Dưới đây là một số hình thức chủ yếu:
2.1. Nhập khẩu uỷ thác
Là một hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu một số mặt hàng nhưng lại không có quyền tham gia quan hệ nhập khẩu trực tiếp nên uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương, tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng với nước ngoài và làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu và được hưởng thù lao uỷ thác.
2.2. Nhập khẩu trực tiếp
Là hoạt động nhập khẩu độc lập của doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp. Doanh nghiệp thực hiện từ nghiên cứu thị trường trong nước và nước ngoài, tính toán đầy đủ các chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, chấp hành nghiêm túc chính sách pháp luật quốc gia và quốc tế.
2.3. Nhập khẩu liên doanh
Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có Ýt nhất một doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng tiến hành giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này tiến triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, lãi cùng chia và lỗ cùng chịu.
2.4 Nhập khẩu đổi hàng
Là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu gắn liền với nhập khẩu. Người mua (người nhập khẩu) đồng thời là người bán (người xuất khẩu). Mục đích của việc nhập hàng không phải chỉ là thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất được hàng và thu được lợi nhuận từ hoạt động xuất này.
2.5 Tạm nhập tái xuất
Là hoạt động nhập hàng trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước thứ ba nào đó nhằm thu được lợi nhuận. Những hàng nhập này không được chế biến ở nước tái xuất. Hình thức này luôn thu hót ba nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất.
Trên đây là những hình thức nhập khẩu khá phổ biến ở nước ta và được các doanh nghiệp vận dụng. Tuy nhiên, để vận dụng có hiệu quả thì đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải vận dụng một cách linh hoạt tránh áp dụng một cách dập khuôn máy móc chỉ một hình thức duy nhất sẽ không đem lại hiệu quả cao. Doanh nghiệp phải lùa chọn môi trường kinh doanh. Lĩnh vực kinh doanh, điều kiện giao dịch để đưa ra hình thức nhập khẩu phù hợp hoặc kết hợp các hình thức nhập khẩu. Ngoài ra còn phải dùa vào tiềm lực tài chính của doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu mà lùa chọn hình thức nhập khẩu.
Ngoài cách phân loại như trên còn có thể phân loại theo các tiêu thức khác như:
Theo hình thức quản lý của Nhà nước có nhập khẩu mậu dịch và nhập khẩu phi mậu dịch.
Theo khối lượng hàng hóa nhập khẩu có nhập khẩu chính ngạch và nhập khẩu tiểu ngạch
Nhập khẩu chính ngạch là phương thức nhập khẩu chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước, nhập khẩu với khối lượng lớn, phải xin giấy phép nhập khẩu của Bộ Thương Mại. Còn nhập khẩu tiểu ngạch chính là nhập khẩu qua đường biên giới với khối lượng nhỏ. Hàng hoá nhập khẩu tiểu ngạch khi nhập khẩu phải có tờ khai hàng nhập khẩu tiểu ngạch và biên lai nép thuế tiểu ngạch Nhà nước không trực tiếp quản lý hàng hoá nhập khẩu tiểu ngạch bằng kế hoạch.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
3.1. Các công cụ quản lý chủ yếu của Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu
Mục đích của các công cụ này là hạn chế lượng hàng hoá nhập vào trong nước. Cụ thể là thuế quan, hạn ngạch, giấy phép xuất nhập khẩu, kiểm soát ngoại tệ.
- Thuế quan: Thuế quan nhập khẩu là thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng nhập khẩu. Vì vậy, mọi sự thay đổi như tăng giảm mức thuế, quy định lại mức đánh thuế, nhóm mặt hàng đánh thuế, áp giá tính thuế… đều ảnh hưởng tới chi phí nhập khẩu, tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Công cụ này được xem là quan trọng nhất trong quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam.
- Hạn ngạch: Là quy định của Nhà nước về số lượng hoăc giá trị nhập khẩu của mặt hàng nào đó đối với thị trường nào đó trong một thời gian nhất định. Mục đích của hạn ngạch là bảo vệ tài nguyên, môi trường, môi sinh. Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, bảo đảm sự hợp lý của sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, bảo đảm sử dụng ngoại tệ một cách hợp lý. Việc hạn chế hay mở rộng hạn ngạch của các mặt hàng doanh nghiệp đang kinh doanh tăng, giảm số lượng mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc lùa chọn măt hàng, số lượng được nhập, chiến lược kinh doanh.
Giấy phép nhập khẩu: Mọi hợp đồng nhập khẩu ở Việt Nam của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà thuộc đối tượng đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu thì doanh nghiệp không phải xin giấy phép nhập khẩu. Ngoài những mặt hàng này, nếu các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có nhu cầu nhập khẩu đều phải xin giấy phép nhập khẩu của cơ quan quản lý của Nhà nước là ngành hải quan.
- Quản lý ngoại tệ: Đây là biện pháp tác động trực tiếp tới vấn đề thanh toán trong hợp đồng nhập khẩu. Đối với nước thiếu ngoại tệ như nước ta áp dụng biện pháp kiểm soát ngoại tệ bằng cách điều tiết nhập khẩu một số loại hàng hoá thông qua việc phân phối ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá đó qua ngân hàng quốc gia. Do vậy, khi tiến hành nhập khẩu, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải xin được sử dụng ngoại tệ hoặc mua ngoại tệ từ ngân hàng quốc gia để thanh toán cho khách hàng theo quy chế quản lý ngoại tệ của nước ta.
3.2 Các chính sách thương mại quốc tế:
Hầu như các chính sách thương mại quốc tế đều có tác dụng tích cực tới hoạt động nhập khẩu như chính sách hỗ trợ (chính sách sử dụng đòn bẩy kinh tế, chính sách giá cả, chính sách đầu tư, tín dụng), chính sách mặt hàng, chính sách thị trường. Vì vậy, chính sách thương mại là phương tiện giúp cho hoạt động nhập khẩu phát triển.
3.3. Tác động của tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một đơn vị tiền tệ nước kia. Vì vậy, tỷ gía hối đoái cùng một loạt các nhân tố khác tác động tương qua tới gía cả xuất khẩu và nhập khẩu, tới khả năng nhập khẩu của công ty. Nếu tỷ gía hối đoái giảm thì đồng bản tệ có giá trị thấp hơn so với đồng ngoại tệ làm cho nhập khẩu trở nên đắt hơn (giả thiết các yếu tố khác không ảnh hưởng), kích thích sự tăng giá trong nước làm hạn chế nhập khẩu và kích thích sản xuất trong nước các hàng hoá thay thế, đây là sự bất lợi đối với PACKEXIM do công ty này chủ yếu là nhập khẩu điều này ngược lại là tỷ giá hối đoái tăng.
3.4. Sù biến động của thị trường
Có thể hình dung hoạt động nhập khẩu như là một chiếc cầu nối thông thương giữa hai thị trường tạ