Sau Đại hội Đảng VI (1986), nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Cùng với sự đổi mới đó cơ cấu nền kinh tế nước ta cũng đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, chuyển đổi để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Từ nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu chuyển sang nền kinh tế có tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên,còn tỉ trọng của nông nghiệp giảm xuống.Sự chuyển đổi đó đã tạo ra cơ hội phát triển mới cho đất nước nói chung và cho từng ngành nói riêng.
Ngành du lịch là một ngành kinh tế xã hội dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ ngơi có hoặc không kết hợp với các hoạt động khác như: Công vụ, chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học.Trong những năm gần đây thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước, ngành du lịch đã được đầu tư phát triển rất mạnh và có những bước tiến đáng kể, thể hiện qua: Số lượng khách du lịch quốc tế và trong nước tăng nhanh qua từng năm, đóng góp của ngành du lịch vào ngân sách nhà nước ngày càng tăng, đặc biệt là chúng ta đã thu được một nguồn ngoại tệ lớn thông qua việc xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm hang hoá và dịch vụ, thu hút được rất nhiều lao động ở các trình độ khác nhau, tạo điều kiện cho nhiều ngành kinh tế khác phát triển.Có được những thành công đó phải kể đến việc chúng ta đã thu hút được một số lượng khách du lịch rất lớn, đặc biệt là khách du lịch quốc tế bởi có được nhiều khách du lịch thì mới kéo theo sự phát triển của các dịch vụ du lịch khác như: Lữ hành, cơ sở lưu trú, hàng hoá lưu niệm
98 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1973 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các phương pháp thống kê nghiên cứu lượng khách du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các phương pháp thống kê nghiên cứu lượng khách du lịch
Lời mở đầu
Sau Đại hội Đảng VI (1986), nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Cùng với sự đổi mới đó cơ cấu nền kinh tế nước ta cũng đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, chuyển đổi để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Từ nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu chuyển sang nền kinh tế có tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên,còn tỉ trọng của nông nghiệp giảm xuống.Sự chuyển đổi đó đã tạo ra cơ hội phát triển mới cho đất nước nói chung và cho từng ngành nói riêng.
Ngành du lịch là một ngành kinh tế xã hội dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ ngơi có hoặc không kết hợp với các hoạt động khác như: Công vụ, chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học...Trong những năm gần đây thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước, ngành du lịch đã được đầu tư phát triển rất mạnh và có những bước tiến đáng kể, thể hiện qua: Số lượng khách du lịch quốc tế và trong nước tăng nhanh qua từng năm, đóng góp của ngành du lịch vào ngân sách nhà nước ngày càng tăng, đặc biệt là chúng ta đã thu được một nguồn ngoại tệ lớn thông qua việc xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm hang hoá và dịch vụ, thu hút được rất nhiều lao động ở các trình độ khác nhau, tạo điều kiện cho nhiều ngành kinh tế khác phát triển...Có được những thành công đó phải kể đến việc chúng ta đã thu hút được một số lượng khách du lịch rất lớn, đặc biệt là khách du lịch quốc tế bởi có được nhiều khách du lịch thì mới kéo theo sự phát triển của các dịch vụ du lịch khác như: Lữ hành, cơ sở lưu trú, hàng hoá lưu niệm…
Do đó việc phân tích thống kê lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam là rất cần thiết để có thể đánh giá được quy mô, hiệu quả hoạt động của ngành cũng như có cơ sở để lập kế hoạch cho sự phát triển của ngành du lịch trong những năm tiếp theo
Ngoài phần mục đích và kết luận, nội dung luận văn gồm:
Chương I Khách du lịch và các chỉ tiêu thống kê khách du lịch
Chương II Các phương pháp thống kê nghiên cứu lượng khách du lịch
Chương III Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích lượng khách quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 1995-2005
Chương I : Khách du lịch và các chỉ tiêu thống kê khách du lịch.
I. Khái niệm về khách du lịch và nghiên cứu thống kê khách du lịch
1. Khái niệm về khách du lịch
Đã có rất nhiều các khái niệm khác nhau về khách du lịch, định nghĩa đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII tại Pháp, theo đó khách du lịch là người thực hiện một cuộc hành trình lớn “Faire le grand tour”. Cuộc hành trình lớn là cuộc hành trình từ Paris đến Đông nam nước Pháp
Năm 1800 tại Anh, khách du lịch cũng được định nghĩa là người thực hiện cuộc hành trình lớn trên đất liền xuyên nước Anh.
Đầu thế kỷ XX, Iozef Stander- nhà kinh tế học người Áo cho rằng: Khách du lịch là khách xa hoa ở lại theo ý thích, ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn những nhu cầu sinh hoạt cao cấp mà không theo đuổi các mục đích kinh tế.
Giáo sư Khadginicolov của Bungari đã đưa ra khái niệm về khách du lịch: Là người hành trình tự nguyện với những mục đích hoà bình, trong cuộc hành trình của mình họ đi qua những chặng đường khác nhau và thay đổi một hoặc nhiều lần nơi cư trú của mình.
Một người Anh khác là Morval lại cho rằng: Khách du lịch là người đến đất nước khác theo nhiều nguyên nhân khác nhau, những nguyên nhân đó khác biệt với những nguyên nhân phát sinh để cư trú thường xuyên và để làm thương nghiệp, ở đó họ phải tiêu tiền kiếm ra ở nơi khác.
Nhà kinh tế học người Anh Odgilvi khẳng định: Một người được coi là khách du lịch phải thoả mãn hai điều kiện: Phải xa nhà với khoảng thời gian dưới một năm và ở nơi đó phải tiêu những khoản tiền đã tiết kiệm ở nơi khác.
Tuy nhiên tất cả các định nghĩa trên đều chưa đầy đủ, mang tính phiến diện, còn mang nặng tính chất phản ánh sự phát triển của du lịch đương thời, hạn chế nội dung thực của khái niệm “khách du lịch”. Để có thể tìm hiểu đúng và đầy đủ hơn chúng ta cần tìm hiểu và phân tích một số định nghĩa về khách du lịch được đưa ra từ các Hội nghị quốc tế về du lịch hoặc của các tổ chức quốc tế có quan tâm đến các vấn đề về du lịch.
1.1. Định nghĩa của các tổ chức quốc tế về khách du lịch
a. Khách du lịch quốc tế:
* Định nghĩa của Liên hiệp các quốc gia- league of nations
Năm 1937, Liên hiệp các quốc gia đã đưa ra khái niệm về khách du lịch nước ngoài- Foreign tourist là:Bất cứ ai đến thăm một đất nước khác với nơi cư trú thường xuyên của mình trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ.
Theo định nghĩa này ta thấy:
- Những người được coi là khách du lịch là:
Những người khởi hành để giải trí và vì những nguyên nhân gia đình, sức khoẻ.
Những người khởi hành để gặp gỡ, trao đổi các mối quan hệ về khoa học, ngoại giao, tôn giáo, thể thao…
Những người khởi hành vì mục đích kinh doanh
Những người cập bến từ các chuyến hành trình du ngoạn trên biển, thậm chí cả khi họ dừng lại trong khoảng thời gian dưới 24 giờ.
- Những người không được coi là khách du lịch:
Những người đến lao động, kinh doanh có hoặc không có hợp đồng
Những người đến với mục đích định cư
Sinh viên hay những người đến học ở các trường
Những người ở biên giới sang làm việc
Những người đi qua một nước mà không dừng lại mặc dù cuộc hành trình đi qua nước đó có thể hơn 24 giờ.
* Định nghĩa của Liên hiệp quốc tế của các tổ chức chính thức về du lịch- IUOTO (international union of official travel organizations- sau này là WTO)
Năm 1950 IUOTO đưa ra định nghĩa về khách du lịch quốc tế có hai điểm khác với định nghĩa trên,thể hiện ở:
Sinh viên và những người đến học ở các trường cũng được coi là khách du lịch.
Và những người quá cảnh không được coi là khách du lịch trong cả hai trường hợp: Hoặc là họ hành trình qua một nước không dừng lại trong thời gian vượt qua 24 giờ, hoặc là họ hành trình trong khoảng thời gian dưới 24 giờ và có dừng lại nhưng không với mục đích du lịch.
* Định nghĩa về khách du lịch được chấp nhận tại Hội nghị ở Roma (Italia) do LHQ tổ chức về các vấn đề du lịch quốc tế và đi lại quốc tế (1963).
Khách du lịch quốc tế (international tourist) là người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian ít nhất là 24 giờ (hoặc sử dụng ít nhất một buổi tối trọ).
Động cơ khởi hành của họ là:
Khởi hành để giải trí, chữa bệnh, học tập, với mục đích thể thao hoặc tôn giáo.
Đi du lịch lien quan đến làm ăn, thăm gia đình, bạn bè, đi du lịch để tham gia các Hội nghị, đại hội.
Với khái niệm trên, khách du lịch quốc tế gồm những người sau:
Người nước ngoài, không sống ở nước đến thăm và đi theo các động cơ đã nêu trên.
Công dân của một nước sống cư trú thường xuyên ở nước ngoài về thăm quê hương
Nhân viên của các tổ lái (máy bay, tàu hoả, ôtô, tàu thuỷ) đến thăm, nghỉ ở nước khác và sử dụng phương tiện cư trú. Ở đây kể cả những người không phải là nhân viên của các hang giao thông vận tải mà là những lái xe tải, xe ca tư nhân.
Những người sau không được coi là khách du lịch quốc tế:
Những người ra nước ngoài để tìm kiếm việc làm hoặc làm ăn theo hoặc không theo hợp đồng
Những cư dân ở vùng giáp biên giới sống ở nước bên này nhưng làm việc ở nước bên cạnh
Những người dân di cư tạm thời hoặc cố định
Những người tị nạn
Những người tha phương cầu thực
Các nhà ngoại giao
Nhân viên các đại sứ quán, lãnh sự quán và các lực lượng bảo an.
Năm 1968 Uỷ ban thống kê của LHQ-United nation statistical commission đã công nhận định nghĩa đó.
* Năm 1989 tại hội nghị quốc tế về du lịch ở Hà Lan đã đưa ra khái niệm về khách du lịch quốc tế như sau:
Khách du lịch quốc tế là những người đi thăm một đất nước khác với mục đích tham quan, nghỉ ngơi, giải trí, thăm hỏi trong khoảng thời gian ít hơn 3 tháng, những người khách này không được làm gì để được trả thù lao và sau thời gian lưu trú ở đó du khách trở về nơi ở thường xuyên của mình.
Điểm đặc biệt nhất của định nghĩa này là quy định về thời gian của chuyến đi du lịch đối với khách du lịch quốc tế (<3 tháng).
b. Khách du lịch trong nước:
Tiểu ban về các vấn đề kinh tế xã hội trực thuộc Liên hiệp quốc cho rằng:
Khách du lịch nội địa-Domestic tourist là công dân của một nước (không kể quốc tịch) hành trình đến một nơi trong đất nước đó, khác nơi cư trú thường xuyên của mình trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ, hay một đêm với mọi mục đích trừ mục đích hoạt động để được trả thù lao tại nơi đến.
Sau khi nghiên cứu các định nghĩa trên ta thấy rằng chúng đều có một số điểm chung sau:
- Khi đề cập đến khách du lịch luôn có 3 yếu tố:
+Động cơ khởi hành: Tham quan, nghỉ dưỡng, thăm thân kết hợp kinh doanh trừ động cơ kiếm tiền.
+Yếu tố thời gian
+Những đối tượng được liệt kê là khách du lịch và không là khách du lịch.
- Khách du lịch phải là người khởi hành rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình, ở đây tiêu chí quốc tịch không quan trọng mà tiêu chí quan trọng là nơi cư trú thường xuyên).
- Khách du lịch có thể khởi hành mọi mục đích khác nhau, loại trừ mục đích lao động để kiếm tiền ở nơi đến.
Những đối tượng sau không được coi là khách du lịch:
+Những người đến để làm việc có hoặc không có hợp đồng lao động
+Những người đi học
+Những người di cư tị nạn
+Những ngươi làm việc tại đại sứ quán, lãnh sự quán
+Những người làm việc thuộc lực lượng bảo an cuả LHQ và một số đối tượng khác.
- Thời gian lưu lại nơi đến ít nhất la 24 giờ (hoặc có sử dụng ít nhất một tối trọ) nhưng không được quá 1 năm.
1.2. Định nghĩa về khách du lịch của Việt Nam
Được quy định tại điều 20, chương IV của pháp lệnh du lịch Việt Nam 1999.
a. Khách du lịch quốc tế:
Là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch.
Trên giác độ thống kê, thống kê du lịch định nghĩa rằng:
Khách du lịch quốc tế là một khách đi du lịch tới một đất nước không phải là đất nước mà cư trú thường xuyên trong khoảng thời gian ít nhất là một ngày đêm nhưng không vượt quá một năm và mục đích chính của chuyến đi không phải là để hoạt động mục đích kiếm tiền trong phạm vi đất nước tới thăm.
b. Khách du lịch trong nước:
Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Còn thống kê du lịch thì cho rằng:
Khách du lịch trong nước là một khách cư trú ở một đất nước đi du lịch tới một địa phương trong nước đó nhưng ngoài môi trường thường xuyên của họ trong thời gian ít nhất là một ngày đêm nhưng không vượt quá 6 tháng và mục đích chính của chuyến đi không phải là để hoạt động thực hiện kiếm tiền trong phạm vi địa phương tới thăm.
Trước tình hình có nhiều khái niệm của các nước và các tổ chức về du lịch trên thế giới, tổ chức du lịch thế giới đã đưa ra những thuật ngữ mang tính chất chung để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thống kê du lịch quốc tế, giúp các nước có thế dễ dàng trao đổi thông tin và kinh nghiệm với nhau trong lĩnh vực du lịch.
Để phục vụ mục đích thống kê du lịch, nghị quyết của Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch họp ở Ottawa- Canada từ 24-28/6/1991 đã được đại hội đồng của tổ chức du lịch thế giới WTO thông qua kỳ họp thứ 9 tại Buenos Aires-Achentina từ 30/9 đến 4/10/1991 đã đưa ra định nghĩa về khách du lịch quốc tế như sau:
Khách du lịch quốc tế là một người khách đi du lịch tới một đất nước không phải là đất nước mà họ cư trú thường xuyên trong khoảng thời gian ít nhất là một ngày đêm nhưng không vượt quá một năm và mục đích chính của chuyến đi không phải để thực hiện hoạt động kiếm tiền trong phạm vi đất nước tới thăm
Ngày 4/3/1993, theo đề nghị của tổ chức du lịch thế giới (WTO), Hội đồng thống kê Liên hiệp quốc (United nations statistical commission) đã công nhận những thuật ngữ sau để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch:
- Khách du lịch quốc tế (international tourist) gồm:
+ Khách du lịch quốc tế đến (inbound tourist): Bao gồm những người từ nước ngoài đến du lịch một quốc gia.
+ Khách du lịch quốc tế ra nước ngoài (outbound tourist): Gồm những người đang sống trong một quốc gia đi du lịch nước ngoài.
- Khách du lịch trong nước (internal tourist): Gồm những người là công dân của một quốc gia và những người nước ngoài đang sống trên lãnh thổ của quốc gia đó đi du lịch trong nước.
- Khách du lịch nội địa (Domestic tourist): Bao gồm khách du lịch trong nước và khách du lịch quốc tế đến.
- Khách du lịch quốc gia (National tourist): Gồm khách du lịch trong nước và khách du lịch quốc tế ra nước ngoài.
2. Nghiên cứu thống kê khách du lịch
2.1. Ý nghĩa của việc thống kê khách du lịch
Việc nghiên cứu thống kê khách du lịch có một ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi:
Các chỉ tiêu thống kê khách du lịch là những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá kết quả hoạt động của từng đơn vị kinh doanh du lịch cũng như của toàn ngành du lịch.Thông qua các chỉ tiêu thống kê khách du lịch còn có thể nghiên cứu quy mô của thị trường du lịch.
Các chỉ tiêu thống kê khách du lịch là cơ sở để tính các chỉ tiêu phân tích khác, phản ánh đặc trưng về hoạt động du lịch; ví dụ như: các chỉ tiêu đặc trưng về lưu trú, chỉ tiêu sản phẩm dịch vụ…
Các thông tin phân tích dự báo đối với chỉ tiêu thống kê khách du lịch là cơ sở để lập kế hoạch cho những chỉ tiêu quan trọng khác trong lĩnh vực dịch vụ; ví dụ: Lập kế hoạch về nhu cầu lưu trú, kế hoạch đầu tư cho các phương tiện giao thông vận tải du lịch, hệ thống các công trình phục vụ các hoạt động giải tri, bổ trợ…
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu thống kê khách du lịch
Cần xác định đúng, đủ kết quả hoạt động của đơn vị kinh doanh du lịch và của toàn ngành về số lượng và kết cấu khách du lịch, về doanh thu của hoạt động du lịch trong từng thời kỳ nhất định.
Phân tích đặc điểm xu hướng và quy luật biến động của số lượng khách du lịch, căn cứ vào đó để xác định mô hình thích hợp dự đoán quy mô và kết cấu khách du lịch trong tương lai nhằm cung cấp thông tin cho công tác lập kế hoạch kinh doanh du lịch.
II. Các chỉ tiêu thống kê khách du lịch
1. Một vài nét về việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê
1.1. Chỉ tiêu thống kê
Chỉ tiêu thống kê phản ánh lượng gắn với chất của các mặt, các tính chất cơ bản của hiện tượng số lớn trong điều kiện địa điểm và thời gian cụ thể. Tính chất của các hiện tượng cá biệt được khái quát hoá trong chỉ tiêu thống kê.
Vì vậy chỉ tiêu thống kê phản ánh những mối quan hệ chung của tất cả các đơn vị hoặc nhóm đơn vị tổng thể.
Mỗi một chỉ tiêu thống kê đều gồm có 2 phần: Khái niệm và mức độ.
- Khái niệm: Nói về định nghĩa và giới hạn về thuộc tính, số lượng, thời gian của hiện tượng.
- Mức độ: Có thể được biểu hiện bằng các loại thang đo khác nhau, phản ánh quy mô hoặc cường độ của hiện tượng.
Có 2 loại chỉ tiêu thống kê: Chỉ tiêu chất lượng và chỉ tiêu khối lượng.
Chỉ tiêu chất lượng: Biểu hiện các tính chất, trình độ phổ biến, các mối quan hệ của tổng thể.Tuy nhiên có một số chỉ tiêu chất lượng không thể biểu hiện được bằng các con số trực tiếp, chỉ dừng lại ở các khái niệm và phải biểu hiện một cách gián tiếp thông qua các chỉ tiêu khác.
Chỉ tiêu khối lượng: Biểu hiện quy mô của tổng thể.
1.2. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê là một khâu rất quan trọng trong mô hình nghiên cứu thống kê. Đối với những tiêu thức số lượng và chất lượng đơn giản của hiện tượng ta có thể có được ngay các chỉ tiêu thống kê và có sự mô tả trực tiếp hiện tượng nghiên cứu.Còn với những tiêu thức thuộc tính phức tạp hoặc trừu tượng cần phải trải qua các bước cụ thể hoá dần dần mới đi đến các chỉ tiêu thống kê; ví dụ: Sự tự tin của con người, trình độ thành thạo của lao động…Những tiêu thức thuộc tính phức tạp hoặc trừu tượng trước hết được phản ánh bằng các khái niệm cơ bản, sau đó khái niệm cơ bản này được chia nhỏ thành các khái niệm thành phần, mỗi khái niệm thành phần lại được chia nhở thành những khái niệm nhỏ hơn cho đến khi chúng trở thành các chỉ tiêu đơn giản. Quá trình đó gọi là thao tác hoá khái niệm hoặc thực hành hoá khái niệm.
Để phản ánh chính xác các hiện tượng mà thống kê nghiên cứu cần phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu với các nguyên tắc sau:
-Hệ thống chỉ tiêu thống kê phải phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
- Hiện tượng càng phức tạp, nhấtlà các hiện tượng trừu tượng, số lượng chỉ tiêu cần nhiều hơn so với các hiện tượng đơn giản
- Để thu thập thông tin, chỉ cần điều tra các chỉ tiêu sẵn có ở cơ sở, nhưng cần hình dung trước số chỉ tiêu sẽ phải có nhằm phục vụ cho việc áp dụng các phương pháp phân tích, dự đoán sẽ dung ở giai đoạn sau.
- Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đúng, đủ nhưng phải hết sức tiết kiệm chi phí.
2. Các chỉ tiêu thống kê khách du lịch
2.1. Số lượng khách du lịch: (K)
-Nội dung của chỉ tiêu:
Số lượng khách du lịch là tổng số lượt khách đến và tiêu dung các sản phẩm dịch vụ du lịch trong kỳ nghiên cứu.
- Đây là chỉ tiêu tuyệt đối, thời kỳ.
Đơn vị tính: Lượt khách.
- Cách tính: Tính riêng cho khách du lịch quốc tế và khách du lịch trong nước.
* Số lượng khách du lịch quốc tế:
+Phạm vi toàn ngành:
Chúng ta không tổng hợp dữ liệu từ báo cáo khách du lịch quốc tế của các doanh nghiệp vì nều như vậy sẽ xảy ra tính trùng. Để khắc phục vấn đề tình trùng, chỉ tiêu này được xác định theo phạm vi lãnh thổ dựa trên cơ sở dữ liệu thống kê tại cửa khẩu. Theo phương pháp đó, số khách du lịch quốc tế là tổng số lượt khách đến tại các cửa khẩu hang không, đường bộ, đường biển theo mục đích du lịch. Nguồn dữ liệu được tổng hợp từ cục quản lí xuất nhập cảnh).
+Phạm vi từng đơn vị kinh doanh du lịch:
Số khách du lịch quốc tế là tổng số khách đến từ các quốc gia khác mà doanh nghiệp phục vụ trong kỳ. Nguồn dữ liệu được thu thập từ báo các đăng ký khách (xác định theo từng ngành và tổng hợp theo tháng, quý, năm).
* Số lượng khách du lịch trong nước:
+Phạm vi toàn ngành:
Số khách du lịch trong nước được xác định theo dữ liệu tổng hợp từ các doanh nghiệp, kết hợp với kết quả điều tra chọn mẫu để xác định hệ số tính trùng.
Số khách du lịch trong nước= Tổng số khách du lịch trong nước của các doanh nghiệp du lịch x hệ số tính trùng.
+Phạm vi từng đơn vị kinh doanh du lịch:
Số khách du lịch trong nước là tổng số lượt khách cư trú trong nước đến và tiêu dung các sản phẩm dịch vụ du lịch của doanh nghiệp trong kỳ.
Nguồn số liệu được tổng hợp từ báo cáo của doanh nghiệp.
- Ý nghĩa:
Thống kê lượng khách du lịch quốc tế cho ta biết được tình hình hoạt động của ngành du lịch, biết được khả năng thu hút của từng điểm du lịch nói riêng và toàn ngành du lịch nói chung. Kết quả thu thập được có tầm quan trọng trong việc vạch ra kế hoạch hoạt động cụ thể cho ngành.
2.2. Số ngày khách du lịch: (N).
- Nội dung của chỉ tiêu:
Là số cộng dồn toàn bộ ngày du lịch của toàn bộ khách du lịch trong kỳ nghiên cứu.
- Cách tính:
Số ngày khách du lịch = quy mô đoàn khách thứ i x độ dài lưu trú của đoàn khách thứ i
Khi tính chỉ tiêu này ít xảy ra vấn đề tính trùng, chỉ tiêu này không có ảnh hưởng lớn đến việc đánh giá kết quả hoạt động du lịch của toàn ngành.
+Phạm vi từng doanh nghiệp:
Số ngày khách du lịch là tổng số ngày khách cộng dồn mà doanh nghiệp phục vụ trong kỳ.Nguồn dữ liệu được tổng hợp từ báo cáo đăng ký khách theo 2 chỉ tiêu: Quy mô đoàn khách (K) và độ dài lưu trú (N).
+Phạm vi toàn ngành:
Số ngày khách du lịch là tổng cộng số ngày khách của các đơn vị kinh doanh du lịch qua các báo cáo thống kê định kỳ.
- Ý nghĩa:
Chỉ tiêu số ngày khách du lịch ngoài việc phản ánh kết quả hoạt động của đơn vị kinh doanh du lịch còn có tác dụng trong việc lập kế hoạch và tiếp thị vì nó chỉ rõ cần nhiều hay ít các phương tiện phục vụ cho công cộng, chỗ đậu xe, nhu cầu về sân chơi, bãi tắm, các khu vui chơi giải trí…Hơn nữa, có số liệu về ngày khách để hoạch định tầm cỡ của khách sạn hoặc mở mang xây dựng và sửa chữa các cơ sở vật chất.
- Đây là chỉ tiêu tuyệt đối, thời kỳ.
Đơn vị tính là ngày- khách.
2.3. Độ dài lưu trú:(n).
- Nội dung của chỉ tiêu:
Độ dài lưu trú là số ngày lưu