So với các phân môn khác, ngữpháp văn bản là một trong những phân môn
xuất hiện khá muộn và có lịch sửchưa dày.
Xuất phát từvai trò, ý nghĩa của phép liên kết nói chung, phép nối nói riêng,
chúng tôi thiết nghĩ đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Thật sự, phép
nối đóng vai trò là thành tốtạo tính mạch lạc cho văn bản, là một trong những
yếu tốtrọng yếu của vấn đềtạo lập và tiếp nhận văn bản.
Thếnhưng,thực tếlà, nhiều nhà Việt ngữhọc xem xét phép nối thông qua
phát ngôn, mà chưa xem xét nó thông quan khái niệm cú (clause). Chúng tôi,
đứng trên quan điểm “cú”, sẽphân tích những đặc điểm vềcấu trúc, ngữnghĩa,
ngữdụng của phép nối tiếng Việt.
Đặc biệt, trong khi tiếp xúc với tiếng Anh, người viết thấy có những điểm
tương đồng và khác biệt giữa phép nối của ngôn ngữnày với tiếng Việt; do đó,
người viết tiến hành so sánh phép nối giữa hai ngôn ngữ. Chính những sựtương
đồng phản ánh sựqui luật chung vềtưduy, diễn đạt ý tưởng chung của nhân
loại; còn sựdịbiệt lại phản ánh sựkhác biệt vềloại hình ngôn ngữcũng nhưsự
nghiêng vềmặt hình thức ngữpháp – tiếng Anh hay ngữnghĩa – tiếng Việt của
hai ngôn ngữ.
Đồng thời, việc nghiên cứu đềtài này cũng phục vụtrực tiếp cho việc giảng
dạy phân môn Ngữpháp văn bản, Tiếng Việt thực hànhcũng nhưviệc rèn luyện
ngoại ngữcủa người viết.
264 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2834 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối trong tiếng việt (so sánh với tiếng anh), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
Ngô Thị Bảo Châu
CẤU TRÚC, NGỮ NGHĨA, NGỮ DỤNG
CỦA PHÉP NỐI TRONG TIẾNG VIỆT
(SO SÁNH VỚI TIẾNG ANH)
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRỊNH SÂM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
So với các phân môn khác, ngữ pháp văn bản là một trong những phân môn
xuất hiện khá muộn và có lịch sử chưa dày.
Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của phép liên kết nói chung, phép nối nói riêng,
chúng tôi thiết nghĩ đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Thật sự, phép
nối đóng vai trò là thành tố tạo tính mạch lạc cho văn bản, là một trong những
yếu tố trọng yếu của vấn đề tạo lập và tiếp nhận văn bản.
Thế nhưng, thực tế là, nhiều nhà Việt ngữ học xem xét phép nối thông qua
phát ngôn, mà chưa xem xét nó thông quan khái niệm cú (clause). Chúng tôi,
đứng trên quan điểm “cú”, sẽ phân tích những đặc điểm về cấu trúc, ngữ nghĩa,
ngữ dụng của phép nối tiếng Việt.
Đặc biệt, trong khi tiếp xúc với tiếng Anh, người viết thấy có những điểm
tương đồng và khác biệt giữa phép nối của ngôn ngữ này với tiếng Việt; do đó,
người viết tiến hành so sánh phép nối giữa hai ngôn ngữ. Chính những sự tương
đồng phản ánh sự qui luật chung về tư duy, diễn đạt ý tưởng chung của nhân
loại; còn sự dị biệt lại phản ánh sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ cũng như sự
nghiêng về mặt hình thức ngữ pháp – tiếng Anh hay ngữ nghĩa – tiếng Việt của
hai ngôn ngữ.
Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài này cũng phục vụ trực tiếp cho việc giảng
dạy phân môn Ngữ pháp văn bản, Tiếng Việt thực hành cũng như việc rèn luyện
ngoại ngữ của người viết.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Ngoài nước
Năm 1976, nhà xuất bản Lodon và Nework đã cho ra đời quyển “Cohesion
in English” –Phép Liên kết trong tiếng Anh của M.A.K Halliday và Ruqaiya
Hassan [108]. Đây có thể xem là công trình đầu tiên đánh dấu lịch sử nghiên cứu
về phép nối. Trong quyển sách, hai tác giả đã trình bày khá kỹ về các phép liên
kết: Quy chiếu (Reference), Phép thế (Substitution), Phép tỉnh lược (Ellipsis),
Phép liên kết từ vựng (Lexical cohesion) và trong đó có Phép nối (Conjunction).
Về phép nối, Halliday và Hassan nhấn mạnh rằng sự nối kết phải dựa trên mối
quan hệ ngữ nghĩa của chúng. Nhưng đó không phải là mối quan hệ cố định, mà
là “cái theo sau được kết nối một cách hệ thống với cái đã đi trước”. Đây là công
trình nghiên cứu khá kỹ và đi vào chi tiết vào phép nối nói riêng, các phép liên
kết khác nói chung. Sau đi đưa ra khái niệm về phép nối, Halliday và Hassan đã
phân phép nối thành 4 loại chính theo quan hệ ngữ nghĩa của chúng: i.Bổ sung
(Additive), ii.Đối lập (Adversative), iii.Nhân quả (Causal) và iv.Quan hệ thời
gian. Đồng thời, tác giả cũng thống kê một số liên từ biểu hiện những quan hệ
ngữ nghĩa trong phép nối, và phân tích một số liên từ tiêu biểu. Nhìn chung,
đóng góp lớn của công trình là về lí thuyết văn bản nói chung, phép nối nói riêng
cũng như những quan hệ ngữ nghĩa trong phép nối.
Đến năm 1998, ấn bản lần 2 của M.K.Halliday về “An Introduction to
Functional Grammer” - Dẫn luận ngữ pháp chức năng, (được tái bản lần 6) do
Hoàng Văn Vân dịch [31]. Trên cơ sở công trình thứ nhất năm 1976, Halliday
tiến hành bổ sung và sữa chữa những vấn đề có liên quan, đặc biệt về liên kết.
Công trình trình bày và phân tích khá kỹ về khái niệm Cú (Clause) và xem cú là
khái niệm cơ sở để soi sáng các góc độ của văn bản. Đây là công trình được
nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao và được xem là công trình không thể không
biết đến khi nghiên cứu ngữ pháp văn bản nói chung, phép nối nói riêng. Đầu
tiên, tác giả làm rõ khái niệm cú đứng trên ba kiểu ý nghĩa khu biệt hàm chứa
trong cấu trúc của một cú: i.Cú như là một thông điệp – “clause as a masage”
(cấu trúc Đề - Thuyết, ), ii. Cú như là một sự trao đổi – “clause as an exchange”
(hệ thống ngữ pháp và hệ thống thức (mood), Chủ – Vị (chủ ngữ ngữ pháp) và
iii.Cú như là sự thể hiện – “clause as a representation” (chủ ngữ logic: hành
thể, cú được xem như chứa đựng một nguyên tắc cơ bản để mô hình hóa kinh
nghiệm, tức là cú được xem xét như là một quá trình - process). Sau đó,
M.K.Halliday mở rộng khái niệm Cú - dưới cú (những tổ hợp nhỏ hơn cú) và
trên cú (những tổ hợp lớn hơn cú). Công trình cũng đưa ra sự biện luận khá kỹ
về việc chọn cú làm đơn vị cơ bản đề nghiên cứu ngữ pháp chức năng. Từ những
kiến thức nền tảng về “cú”, tác giả soi sáng vào khái niệm: Liên kết và Ngôn bản
(mục 9) - đây là nội dung trọng tâm mà chúng ta cần nghiên cứu. Ở mục này, tác
giả cũng trình bày những phép liên kết cơ bản, nhưng sự phân chia có khác
trước. M.K.Halliday nhập tỉnh lược và thay thế làm một; như vậy, từ năm phép
liên kết, trong công trình này chỉ còn bốn. Tác giả phân chia tỉ mỉ Phép nối theo
ba lĩnh vực: i.Chi tiết hóa (Elaboration), ii.Bành trướng (Expantion) và iii.Tăng
cường (Enhancement). Theo chúng tôi, cách nhìn nhận liên kết dựa trên khái
niệm “cú” của M.K.Halliday có nhiều ưu điểm, nó mang tính khái quát cao. Và
chúng tôi, trong luận văn này, phần lớn theo quan điểm của M.K.Halliday để
nghiên cứu phép nối của tiếng Việt. Đồng thời, trong công trình này, Halliday
cũng trình bày khá kỹ về các quan hệ ngữ nghĩa của phép nối. Trên cơ sở kế
thừa, chúng tôi soi sáng vào phép nối tiếng Việt; đồng thời phân chia lại, thay
đổi một số thuật ngữ để phù hợp với một ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt.
Tóm lại, Halliday là một trong những người đặt những viên gạch đầu tiên
để xây dựng nền móng cho việc tìm hiểu phép nối nói riêng, liên kết nói chung.
Đến năm 1992, nhà xuất bản Philadelphia ở Amsterdam cho ra mắt bạn
đọc công trình của J.R.Martin [120] về “English Text – System and Structure”
(Văn bản tiếng Anh - Hệ thống và Cấu trúc). Đây có thể xem là công trình
nghiên cứu khá kỹ về các phép liên kết, trong đó có phép nối. Chính tác giả này
đưa đến bạn đọc khái niệm Nối bên trong (Internal relations) và Nối bên ngoài
(External relations) - điểm mới của tác giả so với Halliday. Và Martine đã đưa ra
những tiêu chí phân biệt hai loại quan hệ nối này. Đặc biệt, tác giả đã dựa vào
ngữ cảnh cụ thể (Circumtaintial identifying relationals) để phân biệt Nối bên
ngoài (External relations), và dựa vào khái niệm Phóng chiếu (Projection) để
nhận dạng kiểu Nối bên trong (Internal relations). Tác giả cũng chia từng loại
nối bên trong và bên ngoài theo các loại quan hệ: i.Bổ sung (Addictive relations),
ii.Nhân quả (Consiquential relations), iii.So sánh (Comparative relations),
iv.Thời gian (Temporal) và v.Định vị (Locative relations). Ở mục thứ 6 của
quyển sách, tác giả có đề cập đến: Conhesion and register (Liên kết và ngữ vực)
và Cohesive harmony analysis (Phân tích tính hài hòa liên kết). Ở phần thứ nhất
(Conhesion and register), tác giả chủ yếu tóm tắt và trích dẫn lại một số nhận
định của M.K.Halliday và Ruaqaiya Hassan về vấn đề có liên quan đến liên kết
và ngữ vực. Phần còn lại – Cohesive harmony analysis (Phân tích tính hài hòa
trong liên kết), J.R.Martin đề cập đến kỹ năng (hay thủ thuật – Procedure) khảo
sát sự tương tác của chuỗi sở chỉ, chuỗi từ vựng và ngữ pháp kinh nghiệm. Thủ
pháp Cohesive harmony analysis chủ yếu để xem xét sự liên kết trong đơn vị văn
bản; do đó, nó chú ý đến môi trường tồn tại của phép liên kết. Tuy nhiên, công
trình chỉ là những bước phát thảo sơ bộ về phép nối.
Năm 2000, quyển “English Grammer - An Introduction” của Peter Collins
và Carmella Hollo [93] được tái bản (lần 2). Quyển sách gồm hai phần
A.Grammatical Decription (Mô tả ngữ pháp) và B.Looking at language in
context (Xem xét ngôn ngữ trong ngữ cảnh). Ở phần thứ 2, mục Cohesion – Liên
kết và Analysis of Cohesion in sample texts – Phân tích phép liên kết trong
những văn bản tiêu biểu - đã đề cập đến vấn đề liên kết và phép nối. Theo hai tác
giả, ở cấp độ vĩ mô, có các loại phép liên kết: 1).Deictic (Trực chỉ), 2).Generic
(Loại Thể) và 3).Logical signposts (Dấu hiệu logíc). Ở cấp độ vi mô, liên kết có
các loại: 1).Đồng sở chỉ (Co-reference), 2).Thay thế (Substitution) và 3).Tỉnh
lược (Ellipsis).
Theo hai tác giả này, 1).trực chỉ (deictic) là những đơn vị định vị các nhân
vật tham gia giao tiếp, định vị không gian, thời gian (ngữ cảnh hội thoại và thời
gian hội thoại). Cụ thể đó là: i.Participant identification (Nhận ra người tham
gia giao tiếp), ii.Place and time indicators (yếu tố chỉ không gian, thời gian),
iii.Temporal ordering expressions (Sự diễn đạt theo trật tự thời gian) và iv.Tense
and aspect (Thì và Thể - cũng là một yếu tố xác định thời gian của hành động).
Về 2).Loại thể (Generic), đó là những yếu tố làm cho bố cục của văn bản trở nên
rõ ràng, theo một mẫu thức xác định: “in set patterned ways”, chẳng hạn như
phân chia văn bản thành từng chapter (chương), paragraphs (đoạn)…Về 3).Dấu
hiệu logic (Logical signposts), đó là những dấu hiệu trình bày ngữ liệu theo một
chuỗi logic, chuỗi trật tự thời gian như: first (đầu tiên), then (sau đó)…, on one
hand (một mặt), on the other hand (mặt khác)…Tóm lại, ba ý nghĩa ở cấp độ vĩ
mô trên chính là những quan hệ ý nghĩa chỉ thời gian, không gian và trật tự diễn
đạt.
Và hai tác giả đi sâu vào từng khía cạnh: i.Text Orientation (Định hướng
văn bản), ii.Grammatical cohesion (Liên kết ngữ pháp), iii.Logical connectors
(Những yếu tố liên kết logíc) và iv.Lexical Cohesion (Liên kết từ vựng). Trong
mỗi phần vừa nêu, Peter Collins và Carmella Hollo đều có đề cập ít nhiều đến
phép nối. Chẳng hạn, trong phần Text Orientation (Định hướng văn bản), hai tác
giả có kể đến: Temporal ordering expression – Diễn đạt trật từ thời gian (Tr164)
và liệt kê liên từ như: First, second, next... Đến mục Logical connectors, tức
những yếu tố liên kết logic, tác giả lại đưa ra bốn loại liên kết logíc: i.Addictive
(Bổ sung), ii.Adversative (Tương phản), iii.Causal (Nhân-quả) và iv.Temporal
(Thời gian) (tr171-172). Bốn kiểu này là những loại phép nối mà M.K.Halliday
và các tác giả khác đã nêu. Do đó, trên cơ sở kế thừa, chúng tôi sẽ tiến hành bổ
sung và điều chỉnh những vấn đề trùng lắp.
Ngoài ra, lấy cú làm đơn vị phân tích cơ bản, Peter Collins và Carmella
Hollo còn đề cập đến những loại cú (clause types) và những mối quan hệ giữa
các cú hay câu như: Đẳng lập (coordination) và Chính phụ (subordination). Nhìn
chung, có đề cập đến lí thuyết, nhưng công trình chủ yếu đi vào các khía cạnh
ứng dụng của phép nối.
Năm 2008, công trình bằng tiếng Anh của David Nunan [64] “Introduction
Discourse Analysis” - “Dẫn nhập phân tích diễn ngôn” được hai dịch giả Hồ Mỹ
Huyền và Trúc Thanh dịch sang tiếng Việt. Sau khi đề cập đến khái niệm diễn
ngôn cũng như phân biệt khái niệm diễn ngôn và văn bản, Nunan đề cập đến liên
kết, trong đó có phép nối. Ngoài việc đề cập đến khái niệm phép nối, tác giả còn
đề cập đến bốn loại quan hệ ngữ nghĩa chủ yếu trong phép nối, đó là: i.Nghich
đối, ii.Bổ sung, iii.Thời gian và iv.Nguyên nhân. Ngoài ra, công trình còn đề cập
đến khái niệm và phân tích một vài cấu trúc đề thuyết trong diễn ngôn. Do vậy,
những lí thuyết của công trình có thể được xem là cơ sở lí thuyết để nghiên cứu
ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối trong tiếng Việt.
Như vậy, trong khả năng bao quát tư liệu có thể chưa đầy đủ của chúng
tôi, phép nối đã được nhiều nhà Anh ngữ học chú ý đến; và những thành tựu của
nó, nhất là về mặt lí thuyết cũng đạt được những nền móng cơ bản.
2.2. Trong nước
Phạm vi trong nước, cũng có khá nhiều công trình đề cập đến văn bản, liên
kết và cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối.
Năm 1980, Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội đã
giới thiệu với bạn đọc công trình “Ngữ pháp tiếng Việt” của Hoàng Trong Phiến
[66]. Trong công trình này, điểm đóng góp nổi bật của tác giả chính là đưa ra các
mô hình của câu ghép ứng với từng loại quan hệ trong câu ghép - mà theo quan
niệm của chúng tôi là phép nối như: i.câu nhân quả, ii.câu điều kiện, iii.câu nhân
nhượng, iv.câu mục đích, v.câu so sánh, vi.câu đồng loại, vii.câu tương phản,
viii.câu lựa chọn và ix.câu gộp. Chính những mô hình này là tài liệu vô cùng quí
báu để chúng tôi xem xét các quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối cũng như
bổ sung thêm vào phép nối một hệ thống liên từ thể hiện sự nối kết giữa các cú
hay phát ngôn.
Năm 1985 (tái bản vào 05/04/1999), công trình của Trần Ngọc Thêm [76]
về “Hệ thống liên kết và văn bản Tiếng Việt” đã được công bố. Đây là công trình
có giá trị và đánh dấu một bước phát triển mới của ngữ pháp văn bản nói chung,
phép nối nói riêng. Công trình nghiên cứu sâu rộng các khía cạnh của văn bản;
khái quát cả ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của phép nối. Công
trình trình bày ba phần chính. Phần 1 gồm ba chương, đề cập về các khái niệm
và cái nhìn khái quát về “Liên kết văn bản”. Ở phần 2, tác giả bắt đầu đi vào
“Các phương thức liên kết giữa các phát ngôn”. Đây là chương đề cập đến các
phương thức (phép) liên kết ở mặt hình thức, trong đó có phép nối. Trần Ngọc
Thêm dựa trên các loại phát ngôn, chia phép liên kết thành hai loại cơ bản: Phép
nối lỏng (dựa trên phương thức liên kết hợp nghĩa và phát ngôn hợp nghĩa) và
Phép nối chặt (dựa trên phương thức liên kết trực thuộc và phát ngôn trực thuộc
(mà tác giả gọi là ngữ trực thuộc). Trong phép nối lỏng, Trần Ngọc Thêm còn
trình bày mô hình của các yếu tố từ vựng làm thành phần chuyển tiếp hay các từ
làm phụ tố có ý nghĩa so sánh (mà chúng tôi gọi chung là liên từ) như: cũng, lại,
vẫn, càng, còn, cứ…Tác giả cũng đề cập đến cấu trúc khái quát của phép nối:
ArB cũng như trình bày những quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối. Dựa trên
quan hệ ngữ nghĩa, tác giả chia phép nối theo ba quan hệ cơ bản, mỗi quan hệ lại
có những tiểu loại cơ bản: i.Quan hệ định vị (thời gian, không gian); ii.Quan hệ
logic diễn đạt (bao gồm: Trình tự diễn đạt, Thuyết minh- bổ sung và Xác minh –
nhấn mạnh); và iii.Quan hệ logic sự vật (bao gồm: Nhân quả, và Tương phản –
đối lập). Còn phần 3, tác giả đề cập đến khái niệm liên kết ở mặt nội dung. Tóm
lại, đứng trên quan điểm phát ngôn, Trần Ngọc Thêm đã mô tả những đặc điểm
cơ bản của một phép nối nói chung. Từ mô hình lí thuyết chung này, chúng tôi
kế thừa có điều chỉnh để khảo sát mô hình của một số tiểu loại phép nối. Có thể
nói, đây là một trong những công trình nghiên cứu sâu và kỹ về phép nối của
tiếng Việt.
Năm 2001, Nhà xuất bản Giáo Dục đã ra mắt bạn đọc công trình của
Nguyễn Thị Việt Thanh [74] về “Hệ thống kiên kết lời nói tiếng Việt”. Đối tượng
nghiên cứu là ngôn bản, đề cập khá sâu về những vấn đề khái quát chung liên
quan đến liên kết lời nói, tác giả chia liên kết lời nói thành hai phương thức
i.“Bằng phương thức ngữ kết học” và ii.“Bằng phương thức ngữ dụng học”.
Trong phương thức liên kết ngữ kết học lại được chia thành ba tiểu loại: Liên kết
duy trì chủ đề, Liên kết phát triển chủ đề và Liên kết logic. Trong đó, phép nối
thuộc phương thức liên kết logic. Tác giả cũng đã đề cập đến phép nối không có
liên từ: “mặc dù từ nối không được sử dụng nhưng quan hệ ngữ nghĩa vẫn được
xác lập” [74;50]. Nhưng chung qui lại, đóng góp chủ yếu của công trình là
nghiên cứu các phương tiện liên kết trên ngữ liệu lời nói.
Năm 2006, quyển “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt: Văn bản, Mạch
lạc, liên kết, đoạn văn” của Diệp Quang Ban [6] được tái bản (lần thứ ba). Trong
công trình, tác giả trình bày thành từng bài mục rõ ràng về bốn nội dung đã nêu
trong nhan đề sách, rất tiện cho việc tham khảo. Ở phần 2, tác giả đã đề cập đến
phép liên kết, trong đó có Phép nối (từ tr132-134). Lấy phát ngôn làm cơ sở
nghiên cứu như Trần Ngọc Thêm, Diệp Quang Ban cũng chia phép nối thành hai
loại cơ bản: Phép nối lỏng và Phép nối chặt. Đặc biệt, ở phần một, tác giả đã đưa
ra khoảng 15 cách hiểu về khái niệm về văn bản, phân biệt khái niệm văn bản và
diễn ngôn, ngôn ngữ nói và viết và nêu lên những đặc trưng của một văn bản nói
chung. Trần Ngọc Thêm cũng đã đề cập đến cấu trúc đề thuyết – cấu trúc mang
ý nghĩa thông báo trong văn bản.
Năm 2007, nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã cho ra mắt bạn đọc quyển
“Văn bản” của tác giả Diệp Quang Ban [7] theo dự án đào tạo giáo viên THPT
cuả Bộ Giáo dục và Đào Tạo. Phải công nhận đây là công trình viết khá bao quát
về các khía cạnh của văn bản; công trình đề cập hầu hết các phép liên kết, trong
đó có phép nối. Trong bài viết của mình, Diệp Quang Ban đã đề cập đến phép
nối và các phương tiện nối; và các quan hệ ý nghĩa thường gặp trong phép nối.
Về phương tiện nối, ông chia làm hai loại lớn: Quan hệ từ (bình đẳng / phụ
thuộc) và Từ ngữ nối kết (đại từ thay thế/những tổ hợp từ ngữ có ý nghĩa quan hệ
và có tác dụng liên kết). Còn về các quan hệ thường gặp trong phép nối, ngoài 4
quan hệ mà Halliday đã nêu: i.bổ sung, ii.tương phản, iii.thời gian, iv.nhân quả;
Diệp Quang Ban còn đề cập thêm hai loại quan hệ nữa: mục đích và điều kiện.
Nhìn chung, các công trình là một sự tổng hợp từ các công trình đi trước nên sự
đóng góp của nó là không đáng kể.
Năm 2002, (tái bản 2005) công trình của Hoàng Văn Vân [31] ra đời “Ngữ
pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống”.
Đây là công trình mà tác giả viết dựa chủ yếu vào luận án tiến sĩ được tiến hành
tại Khoa Ngôn ngữ học, đại học Macquarie, Australia với nhan đề tiếng Anh “An
Experiential Grammer of the Vietmam clause: A functional Description”. Công
trình dựa trên lý thuyết của M.K.Halliday về cú (clause) trong công trình “An
Introduction to Functional Grammer” (Dẫn luận ngữ pháp chức năng) để soi
sáng vào tiếng việt. Thật sự, công trình có một ý nghĩa đột phá, đem đến một
cách hiểu mới về ngữ pháp văn bản, bên cạnh cách hiểu cũ – dựa vào phát ngôn.
Nhìn chung, công trình là sự vận dụng của ngữ pháp Châu Âu vào tiếng Việt. Dù
chưa nghiên cứu sâu về phép nối, nhưng công trình ít nhiều đã khẳng định vai
trò, ý nghĩa của cú trong việc biểu thị kinh nghiệm (cú như là một sự thể hiện
“clause as a representation” để mô hình hóa kinh nghiệm theo quan điểm chức
năng hệ thống; do đó, nó có ý nghĩa về mặt lí thuyết cho việc chọn cú làm đơn vị
cơ sở của phép liên kết nói chung, phép nối nói riêng.
Nhìn chung, những công trình trên đã đề cập khá toàn diện về những vấn
đề chung về văn bản, liên kết và phép nối.
Năm 1995, Đỗ Thị Kim Liên [56] đã đề cập đến “Quan hệ ngữ nghĩa
trong câu ghép không liên từ” - Ngôn ngữ số 2/1995. Trong công trình này, tác
giả đã trình bày khá kỹ về quan niệm của các nhà ngữ pháp đi trước: một là
không đề cập đến loại câu ghép không liên từ, hai là không tách câu ghép không
liên từ thành một đối tượng nghiên cứu riêng. Tác giả cũng đề cập đến “những
nhân tố tạo nghĩa trong câu ghép không liên từ”. Đó chính là cấu trúc chuyền tải
ý nghĩa; các phương tiện liên kết như phụ từ tình thái, trật tự trước sau…; hay ý
nghĩa của các thành tố trong loại câu ghép này. Về quan hệ ngữ nghĩa, vì đánh
giá cao vai trò của vị ngữ trong việc thể hiện quan hệ ngữ nghĩa trong câu ghép
không liên từ, nên tác giả xem xét các kiểu quan hệ ngữ nghĩa chính của loại câu
ghép này trên hai phương diện cơ bản: i.Các kiểu quan hệ ngữ nghĩa giữa các vị
ngữ và ii.Số lượng các thành tố trong vị ngữ. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên
một số quan hệ ngữ nghĩa trong câu ghép không có liên từ như: i.Quan hệ ngữ
nghĩa đẳng kết, ii.Quan hệ đối sánh (so sánh đồng nhất, so sánh đối lập - khác
biệt, so sánh đối ứng); và iii.Quan hệ ngữ nghĩa tiếp liên (bao gồm 7 nhóm:
nhóm ý nghĩa thời gian – hành động, nhóm quan hệ nguyên nhân – kết quả,
nhóm quan hệ điều kiện – kết quả, quan hệ luận chứng – thuyết minh, quan hệ
ngữ nghĩa bao hàm, quan hệ giải thích, và quan hệ kết quả, nguyên nhân). Bên
cạnh đó, Đỗ Thị Kim Liên còn đề cập đến “giá trị