Vào thời cổ đại, một sốnhà ngôn ngữhọc đã quan niệm ngữpháp học lâu
nay chỉgói gọn trong hai phần đó là: lý thuyết vềtừvà lý thuyết vềcâu. Tức mọi
người chỉthừa nhận câu là đơn vịngữpháp cao nhất, không có đơn vịnào có cấp
bậc cao hơn câu, kểcảnhóm các câu kết hợp lại với nhau. Nhà ngôn ngữhọc
người Pháp là E. Benveniste đã khẳng định: “ Nhóm các câu không tạo nên một
đơn vịbậc cao hơn so với câu. Cấp độngôn ngữnằm trên cấp độvịtừ, tức cấp
độcâu là không có”[ 38, tr8].
Và cứtheo quan niệm nhưtrên, một thời gian dài các nhà ngôn ngữ đã bằng
lòng với việc nghiên cứu ngữpháp học chỉlà dừng lại ởgiới hạn câu. Thếnhưng
cùng với năm tháng, quan niệm cho rằng câu là đơn vịcao nhất đã bộc lộnhiều
hạn chế. Đây cũng chính là cơhội đểsang giữa trước và nửa sau thếkỷhai
mươi, một sốquan niệm vềviệc có đơn vịlớn hơn câu đã dần xuất hiện và gây
nhiều tranh luận. Cuối cùng, đã hình thành một bộmôn mới có tên gọi là Ngữ
pháp văn bản. Nó thực sựxua đi những quan niệm vềviệc ngựtrịcao nhất của
câu trong ngôn ngữhọc. Thăng trầmtrong suốt mấy mươi năm, mãi tới những
năm 70 của thếkỷXX, ngôn ngữhọc văn bản mới thực sựphát triển rầm rộ.
Lĩnh vực ngôn ngữhọc văn bản đã ngày càng thu hút được nhiều sựchú ý của
nhiều nhà nghiên cứu. Phạm vi cũng nhưnội dung nghiên cứu cũng ngày càng
trởnên phong phú.
Việc làm đầu tiên, khi các nhà nghiên cứu bước chân vào một mảnh đất mới
và màu mỡnhưngữpháp văn bản là họphải tìm hiểu những yếu tốnào làm kết
dính các câu, các nhóm câu đểchúng tạo nên một văn bản hoàn chỉnh và thống
nhất. Nếu nhưNguyễn Tài Cẩn và N. V. Stankevich đã nhận định:
“ [ ] Hoàn toàn có thểcho rằng chỉvới câu thì ta mới bắt đầu bước chân vào
địa hạt của thông báo.”. Nhưvậy, theo ông, thì câu chưa đủnăng lực đểthểhiện
hết vai trò làm chức năng thông báo, hay còn gọi là chức năng giao tiếp mà phải
cần đến một đơn vịcao hơn đó là văn bản. Đểtruyền đạt một lượng thông tin
đầy đủvà chính xác, các câu và các nhóm câu phải xác lập vịtrí quan yếu của
mình, chứkhông đơn thuần xem nó nhưlà sựkết hợp theo kiểu cộng các câu lại
với nhau đểtạo nên văn bản.
Chính sựthiếu gắn kết của các câu là nguyên nhân làm cho văn bản rời rạc
hay nói cách khác là không bảo đảm được tính thống nhất và trọn vẹn chủ đề-một yêu cầu cần có của một văn bản mạch lạc. Qua đây, chúng ta cũng phần nào
thấy được vai trò rất quan trọng của tính liên kết. Khi nói đến tính liên kết, chúng
ta thường nhắc đến liên kết nội dung hay còn gọi là tính mạch lạc và liên kết
hình thức hai mặt này luôn tồn tại song song và nó cũng là dấu hiệu đểphân biệt
văn bản với phi văn bản. Ở đây, chúng tôi chỉ đềcập đến liên kết vềhình thức,
tức là các phép liên kết được đánh dấu bằng các phương tiện ngôn ngữ.
Trong một văn bản, không phải đơn thuần sửdụng một phép liên kết là có
thểnói nó đã góp phần tạo lập văn bản, mà đểcó một văn bản, người nói, người
viết phải sửdụng rất nhiều các phương tiện liên kết. Và tùy vào nội dung của văn
bản mà người tạo lập văn bản sửdụng phép liên kết nào, đểnhằm mục đích tránh
cho văn bản rườm rà, lủng củng và dài dòng không cần thiết. Và nếu có phép
liên kết nào được sửdụng lặp đi lặp lại nhiều lần thì chúng ta phải tựhiểu là tác
giả đang có ý nhấn mạnh vềmột nội dung nào đó hay một nhân vật nào đó.
Đọc qua khá nhiều tác phẩm, chúng tôi nhận thấy trong hầu hết các văn bản
có các phép liên kết như: phép nối và phép thế(thế đại từ) là được sửdụng phổ
biến và xuyên suốt trong một văn bản
135 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1879 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của phương thức thay thế từ vựng trong tiếng việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÙI THỊ THÚY HẰNG
CẤU TRÚC, NGỮ NGHĨA, NGỮ DỤNG
CỦA PHƯƠNG THỨC THAY THẾ TỪ VỰNG TRONG
TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số: 60 22 01
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRỊNH SÂM
TP. HỒ CHÍ MINH- NĂM 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
-------------------------------
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Vào thời cổ đại, một số nhà ngôn ngữ học đã quan niệm ngữ pháp học lâu
nay chỉ gói gọn trong hai phần đó là: lý thuyết về từ và lý thuyết về câu. Tức mọi
người chỉ thừa nhận câu là đơn vị ngữ pháp cao nhất, không có đơn vị nào có cấp
bậc cao hơn câu, kể cả nhóm các câu kết hợp lại với nhau. Nhà ngôn ngữ học
người Pháp là E. Benveniste đã khẳng định: “ Nhóm các câu không tạo nên một
đơn vị bậc cao hơn so với câu. Cấp độ ngôn ngữ nằm trên cấp độ vị từ, tức cấp
độ câu là không có” [ 38, tr8].
Và cứ theo quan niệm như trên, một thời gian dài các nhà ngôn ngữ đã bằng
lòng với việc nghiên cứu ngữ pháp học chỉ là dừng lại ở giới hạn câu. Thế nhưng
cùng với năm tháng, quan niệm cho rằng câu là đơn vị cao nhất đã bộc lộ nhiều
hạn chế. Đây cũng chính là cơ hội để sang giữa trước và nửa sau thế kỷ hai
mươi, một số quan niệm về việc có đơn vị lớn hơn câu đã dần xuất hiện và gây
nhiều tranh luận. Cuối cùng, đã hình thành một bộ môn mới có tên gọi là Ngữ
pháp văn bản. Nó thực sự xua đi những quan niệm về việc ngự trị cao nhất của
câu trong ngôn ngữ học. Thăng trầm trong suốt mấy mươi năm, mãi tới những
năm 70 của thế kỷ XX, ngôn ngữ học văn bản mới thực sự phát triển rầm rộ.
Lĩnh vực ngôn ngữ học văn bản đã ngày càng thu hút được nhiều sự chú ý của
nhiều nhà nghiên cứu. Phạm vi cũng như nội dung nghiên cứu cũng ngày càng
trở nên phong phú.
Việc làm đầu tiên, khi các nhà nghiên cứu bước chân vào một mảnh đất mới
và màu mỡ như ngữ pháp văn bản là họ phải tìm hiểu những yếu tố nào làm kết
dính các câu, các nhóm câu để chúng tạo nên một văn bản hoàn chỉnh và thống
nhất. Nếu như Nguyễn Tài Cẩn và N. V. Stankevich đã nhận định:
“ […] Hoàn toàn có thể cho rằng chỉ với câu thì ta mới bắt đầu bước chân vào
địa hạt của thông báo.”. Như vậy, theo ông, thì câu chưa đủ năng lực để thể hiện
hết vai trò làm chức năng thông báo, hay còn gọi là chức năng giao tiếp mà phải
cần đến một đơn vị cao hơn đó là văn bản. Để truyền đạt một lượng thông tin
đầy đủ và chính xác, các câu và các nhóm câu phải xác lập vị trí quan yếu của
mình, chứ không đơn thuần xem nó như là sự kết hợp theo kiểu cộng các câu lại
với nhau để tạo nên văn bản.
Chính sự thiếu gắn kết của các câu là nguyên nhân làm cho văn bản rời rạc
hay nói cách khác là không bảo đảm được tính thống nhất và trọn vẹn chủ đề-
một yêu cầu cần có của một văn bản mạch lạc. Qua đây, chúng ta cũng phần nào
thấy được vai trò rất quan trọng của tính liên kết. Khi nói đến tính liên kết, chúng
ta thường nhắc đến liên kết nội dung hay còn gọi là tính mạch lạc và liên kết
hình thức hai mặt này luôn tồn tại song song và nó cũng là dấu hiệu để phân biệt
văn bản với phi văn bản. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến liên kết về hình thức,
tức là các phép liên kết được đánh dấu bằng các phương tiện ngôn ngữ.
Trong một văn bản, không phải đơn thuần sử dụng một phép liên kết là có
thể nói nó đã góp phần tạo lập văn bản, mà để có một văn bản, người nói, người
viết phải sử dụng rất nhiều các phương tiện liên kết. Và tùy vào nội dung của văn
bản mà người tạo lập văn bản sử dụng phép liên kết nào, để nhằm mục đích tránh
cho văn bản rườm rà, lủng củng và dài dòng không cần thiết. Và nếu có phép
liên kết nào được sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần thì chúng ta phải tự hiểu là tác
giả đang có ý nhấn mạnh về một nội dung nào đó hay một nhân vật nào đó.
Đọc qua khá nhiều tác phẩm, chúng tôi nhận thấy trong hầu hết các văn bản
có các phép liên kết như: phép nối và phép thế (thế đại từ) là được sử dụng phổ
biến và xuyên suốt trong một văn bản.
Vd : Chúng ta vừa qua Sa Pa, bác không nhận ra ư? - Người lái xe bỗng
nhiên lại hỏi.
- Có. Tôi có nhận ra. Sa Pa bắt đầu với những rặng đào. Và với những đàn
bò lang cổ có đeo chuông ở các đồng cỏ trong lũng hai bên đường. Chỗ ấy là Tả
Phình phải không bác? – Nhà họa sĩ trả lời.
- Vâng. Bác không thích dừng lại Sa Pa à?
- Thích chứ, thích lắm. Thế nào tôi cũng về ở hẳn đấy. Tôi đã định thế.
Nhưng bây giờ chưa phải lúc.
- Bác sợ Sa Pa buồn chứ gì?
Nhà họa sĩ phá lên cười:
- Buồn thì ai mà chả sợ? Nó như con gián gặm nhấm người ta? Tốt hơn là tránh
nó để làm việc đời.
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
Từ dùng để nối giữa các câu là: “và”, “nhưng”
Các đại từ được dùng làm phương tiện liên kết trong phép thế là: “Tôi”,
“bác” thay thế cho “Nhà họa sĩ”; “đấy” thay cho “Sa Pa”; “Thế” thay cho một
mệnh đề “tôi cũng về ở hẳn đấy”; “nó” thay cho tính từ “buồn”.
Như vậy, điều làm nên một văn bản, với tư cách là một đơn vị giao tiếp
trước hết là liên kết. Mỗi một phép liên kết thì đóng một vai trò, chức năng riêng
biệt. Phép liên kết thay thế cũng vậy. Xuất hiện với tư cách là một phương tiện
dùng để liên kết và tránh sự lặp lại trong một văn bản, phép thế (hay còn gọi là
phép thay thế) xuất hiện gần như trong tất cả các văn bản. Nó được xem là một
phương tiên liện kết quan trọng và là sự lựa chọn thường nhật của người viết,
người tạo lập văn bản.
Từ trước đến nay, trong ngôn ngữ học chúng ta chỉ thường được nghe đến
phép thế, với cách gọi này nó mang nghĩa thay thế ở một phạm vi tương đối rộng
và ranh giới của nó là khá mơ hồ. Còn với tên gọi liên kết thay thế từ vựng, đã
giới hạn phạm vi thay thế của nó là chỉ ở cấp độ từ và ngữ. Tuy vậy, cũng còn có
rất nhiều vấn đề bên trong cần được làm rõ. Chẳng hạn, việc thay thế giữa các từ
ngữ ở câu trước và câu sau hay giữa đoạn văn này với đoạn văn khác thường
xuyên có sự lặp lại, vậy có thể tạo nên một cấu trúc hay một mô hình chung nào
không? Những cấu trúc khác nhau liệu sẽ kéo theo các quan hệ ngữ nghĩa khác
nhau không? Hay sự thay thế giữa các từ chịu ảnh hưởng như thế nào của ngữ
cảnh. Vai trò của ngữ cảnh trong việc thay thế các từ ngữ này ra sao? Và thực
chất chức năng thay thế trong tổ chức văn bản là gì?
Chính vì những lý do trên, mà chúng tôi đã chọn : “ Cấu trúc, ngữ nghĩa,
ngữ dụng của phép liên kết thay thế từ vựng trong tiếng Việt” làm đề tài
nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Trước đây, khi mọi người chưa nhận ra vai trò của các phương tiện liên kết
trong quá trình xây dựng một đơn vị ở cấp độ trên câu, đó là văn bản thì họ vẫn
cho rằng câu là đơn vị lớn nhất, không có đơn vị nào lớn hơn câu, cụ thể là quan
niệm của nhà ngôn ngữ học người Pháp E. Benveniste: “Nhóm các câu không
tạo nên một đơn vị bậc cao hơn so với câu. Cấp độ ngôn ngữ nằm trên cấp độ vì
từ là không có” [38]. Nhưng về sau có nhiều quan niệm đưa ra có tính thuyết
phục cao đã chứng minh được sự có mặt của một đơn vị trên câu được gọi là văn
bản (text) hay diễn ngôn (discourse). Đơn vị này, gắn liền với ngôn ngữ học văn
bản hay phân tích diễn ngôn. Bộ môn này, nghiên cứu những vấn đề gì hay nói
cách khác nội dung mà nó quan tâm là những nội dung như thế nào? Có thể nói,
trong rất nhiều vấn đề thuộc về Ngữ pháp văn bản thì trong đó hiện tượng đầu
tiên được giới ngôn ngữ học văn bản chú ý đến là việc văn bản không phải là
một phép cộng đơn thuần của các câu. Giữa các câu trong văn bản có những sợi
dây liên hệ chặt chẽ. “Những sợi dây này kéo dài từ câu nọ sang câu kia nhiều
đến nỗi tạo nên một mạng lưới dày đặc, trong đó mỗi câu riêng biệt gắn bó chặt
chẽ với những câu còn lại” [ dẫn theo Moskal’skaja 1981, tr5] [ 38, tr 13].
Như vậy, giữa các câu có những sợi dây liên hệ chặt chẽ ở đây được hiểu là
sự liên kết. Ngay từ khi có bộ môn Ngữ pháp văn bản thì tính liên kết đã được
nghiên cứu, trong đó được khảo sát sớm hơn hết là hiện tượng “lặp” hoặc
“điệp”. Lúc ấy, khái niệm này được hiểu còn tương đối rộng rằng trong “lặp”
còn bao gồm việc lặp các từ cùng gốc, lặp cấu tạo từ, thế bằng đại từ, bằng từ
đồng nghĩa. Dễ thấy, vào thời điểm ấy, thế bằng đại từ và thế bằng đồng nghĩa
được xem là thuộc về hiện tượng lặp. Và sau này, khi ngữ pháp văn bản đã phát
triển, nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu hơn thì các yếu tố trong hiện
tượng lặp ở trên được tách ra là phương thức “lặp” và phương thức “thế”.
Đề tài của luận văn là tìm hiểu về phương thức thay thế từ vựng nên đây sẽ
là chủ đề chúng tôi dành cho nó một sự quan tâm đặc biệt.
Với sự xuất hiện trong mối quan hệ với các phương thức khác, phương thức
thế sau này được nghiên cứu tuy cũng không được cụ thể thành một phương thức
lớn hoàn toàn tách biệt với các phương thức khác, nhưng nằm rải rác trong các
sách ngữ pháp văn bản hay khi nghiên cứu về một phép liên kết nào đó, nó cũng
được các nhà ngôn ngữ nhắc đến như một phương thức nằm trong cùng một hệ
thống các phép liên kết khác. Cụ thể:
Như trong luận án tiến sĩ với tên đề tài “So sánh các biện pháp liên kết từ
vựng trong văn bản tiếng Việt và tiếng Anh”, ở chương hai Nguyễn Phú Thọ
(2007) đã liệt kê các phương thức liên kết trong tiếng Việt, trong đó có phương
thức thế để đối chiếu với cùng phương thức trong tiếng Anh. Trong phần giới
thiệu về phương thức này hay còn gọi là phép thế, tác giả đã trình bày có ba loại
thế: thế danh từ, thế động từ và thế mệnh đề. Trong thế danh từ chỉ ra có:
phương tiện thế là đại từ chỉ ngôi, phương tiện thế là đại từ chỉ không gian, đại
từ chỉ định, đại từ chỉ loại. Dễ thấy cách phân loại này, ảnh hưởng rất lớn từ
M.A.K Halliday & R. Hasan (1976). Có thể nói, luận án chỉ nhắc lại những kiến
thức đã được nêu như trong các sách nghiên cứu đã nhắc đến về phép thế mà
không có một hướng phân tích nào khác để đi sâu hơn về phương thức này. Cũng
vì phạm vi đề tài nên hướng đi của luận án không thể có cách làm khác khi nói
về phép thế.
Trong các sách về ngữ pháp văn bản, không thể thiếu việc nêu ra các
phương thức liên kết và trong đó không thể không nhắc đến phương thức thế.
Như trong cuốn “Dẫn luận ngữ pháp chức năng” của M.A.K Halliday ông đã để
phép tỉnh lược song hành với phép thay thế. Ông có nêu: yếu tố thay thế được
dùng như là một phương tiện chiếm chỗ, chỉ ra thành phần nào đó bị lược bỏ ở
chỗ nào và chức năng ngữ pháp của nó là gì [ 28, tr 505]. Theo ông, thế có ba
loại: thế bằng cú hay còn gọi là mệnh đề (so và not), thế động từ (do, does, did)
và thế danh từ (one/ones, same). Ông còn cho rằng tỉnh lược chẳng qua là thay
thế ở vị trí đó một yếu tố zêro.
Một nhà ngôn ngữ học có nhiều đóng góp cho việc tìm hiểu về hệ thống liên
kết trong tiếng Việt, cụ thể là các phương tiện liên kết, phải nhắc đến
Trần Ngọc Thêm. Trong cuốn “Hệ thống liên kết văn bản trong tiếng Việt”, khi
đề cập đến phương thức thay thế, ông đã chỉ ra hai loại phép thế là thế đồng
nghĩa và thế đại từ. Thế đồng nghĩa ông xếp vào phương tiện liên kết cho cả ba
loại phát ngôn là: phát ngôn tự nghĩa, pháp ngôn hợp nghĩa và ngữ trực thuộc.
Còn thế đại từ chỉ thuộc về phát ngôn hợp nghĩa hay phương thức liên kết hợp
nghĩa. Trong phép thế đồng nghĩa ông lại phân chia ra theo nhiều tiêu chí, thứ
nhất là theo độ phức tạp của hai yếu tố liến kết có: cả hai là từ (gồm: thế đồng
nghĩa từ điển và thế đồng nghĩa lâm thời), ít nhất có một là cụm từ (gồm: thế
đồng nghĩa phủ định và thế đồng nghĩa miêu tả); thứ hai theo độ ổn định của
quan hệ đồng nhất có: thế ổn định (gồm: thế đồng nghĩa từ điển và thế đồng
nghĩa phủ định), thế không ổn định (gồm: thế đồng nghĩa lâm thời và thế đồng
nghĩa miêu tả ). Như vậy, có thể nói được rằng, trên cứ liệu tiếng Việt, Trần
Ngọc Thêm là người tiên phong trong việc nghiên cứu về hệ thống liên kết nói
chung và phép thế nói riêng.
Với G. Brown –G Yule, hai tác giả này nêu lên quan niện về thay thế dựa
trên quan niệm của Halliday & Hasan. Cụ thể: “Halliday&Hasan thừa nhận một
mô hình rất đơn giản về đồng-quy chiếu. Họ chủ trương một quan điểm thay thế
đơn giản ở những nơi mà một biểu thức có thể được thay thế một cách đơn giản
bằng một biểu thức khác trong văn bản” [ 18 , tr 312]. Theo cách hiểu này, thì sự
thay thế diễn ra không có gì quá phức tạp theo lý giải của M.A.K Halliday đã
nêu trong “Cohesion in English”, thực chất hai ông cũng tán đồng ý kiến của
Halliday&Hasan là có thể thay thế yếu tố này bằng một yếu tố khác trong văn
bản. Cách hiểu về phương thức thay thế của G. Brown –G Yule chỉ đơn giản là
như vậy.
Diệp Quang Ban trong cuốn “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt”, đã hệ
thống hóa các quan điểm của M.A.K Halliday & R. Hasan và của Trần Ngọc
Thêm về hệ thống các phương tiện liên kết. Quan niệm của Diệp Quang Ban về
phương thức thế cụ thể như sau: đầu tiên ông xếp phép thế theo cách trình bày
của Trần Ngọc Thêm là nó thuộc vào liên kết hình thức trong sự so sánh với liên
kết nội dung. Sau đó, ông lại trình bày một phép thế nữa theo cách hiểu của
chính tác giả, đó là phép thế cùng với các phương thức khác như: Phép quy
chiếu, phép tỉnh lược, phép nối phép liên kết từ vựng là thuộc về “phi cấu trúc
tính” để phân biệt với tên gọi Liên kết hình thức và liên kết nội dung. Đây là
cách hiểu theo quan niệm của Halliday & Hasan.
Như vậy, có không ít các công trình đã nghiên cứu về phương thức thay thế,
nhưng hầu hết đều chỉ xem đây chỉ là một phương thức như bao phương thức
khác có cùng một vai trò là liên kết trong văn bản và để tạo lập văn bản. Qua tìm
hiểu, chúng tôi thấy được chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu ba bình diện cơ
bản của phép thế như cách hình dung của luận văn này. Trên cơ sở kế thừa thành
quả của các công trình đi trước, luận văn của chúng tôi đứng ra nghiên cứu và
khảo sát cấu trúc, ngữ nghĩa và ngữ dụng một cách hệ thống và toàn diện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng khảo sát của luận văn này là phương thức thay thế từ vựng. Nói
rõ hơn, tất cả các phương tiện thay thế ở cấp độ từ như: thay thế đại từ (nhân
xưng, chỉ xuất), thay thế không phải đại từ như: thế bằng từ gần nghĩa, đồng
nghĩa, hàm nghĩa…đều thuộc phạm vi khảo sát của chúng tôi. Và liên kết có thể
bao gồm các phát ngôn nằm gần nhau hoặc xa nhau hoặc có thể là thay thế cho
cả đoạn văn, tùy theo chức năng cụ thể. Như vậy, phép thay thế theo cách hình
dung của chúng tôi là bao gồm cả thay thế (substituation) và phối hợp từ vựng
(lexcical cohension) theo quan niệm của M.A.K Halliday & R. Hasan (1976).
3.2 Do phạm vi của một luận văn thạc sĩ, những khảo sát của chúng tôi được
khái quát từ 500 ví dụ được sưu tập. Và chúng tôi rất lấy làm tiếc là chưa đi sâu
miêu tả sự khác biệt của phương thức thế từ vựng giữa các phong cách chức
năng ngôn ngữ, mà bước đầu chỉ nhận diện, phân loại và miêu tả một cách chung
nhất.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã định hướng một số phương pháp
nghiên cứu như sau:
a, Phương pháp phân tích diễn ngôn: tất cả ngữ liệu đều được xem xét trong
những ngữ cảnh cụ thể, và trong một chừng mực nhất định, xuất phát điểm để
phân tích ngôn ngữ không chỉ bó hẹp ở phạm vi thụ ngôn và cả trong lĩnh vực
phát ngôn.
b, Phương pháp hệ thống cấu trúc: phép thay thế từ vựng là một hệ thống bao
gồm nhiều tiểu hệ thống với những cấu trúc đan cài vào nhau và tùy theo các
mối quan hệ hoặc bên trong hoặc bên ngoài mà có thể tạm thời phân xuất để làm
nổi rõ một đặc điểm nào đó của chúng.
5. Đóng góp của luận văn
Như đã xác định, luận văn không có tham vọng giải quyết những vấn đề
của lý thuyết mà chỉ đặt ra cho mình một mục đích khiêm tốn:
a, Góp phần xác lập rõ hơn phép thay thế từ vựng trên ba bình diện: cấu trúc,
ngữ nghĩa và ngữ dụng.
b, Từ đó hy vọng rút ra được một số nhận xét thực tế về vai trò của phương thức
này trong việc tạo ra sự mạch lạc, liên kết cho văn bản.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn tập trung ở
hai chương:
Chương 1: Liên kết và liên kết thay thế
Chương này trình bày những tri thức đại cương mà khi khảo sát phương
thức thay thế không thể không nhắc đến. Đây là phần lý thuyết, xuất phát điểm
để luận văn dựa vào mô tả một cách chi tiết ở những phần tiếp theo.
Chương 2: Phương thức thay thế từ vựng trong tiếng Việt.
Chương này tập trung khảo sát các mặt cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của
phép thế tiếng Việt qua việc phân tích những ngữ liệu cụ thể.
CHƯƠNG 1: LIÊN KẾT VÀ LIÊN KẾT THAY THẾ
1.1. Mạch lạc và liên kết
1.1.1 Mạch Lạc (Coherence)
Chúng ta hãy xem xét một ví dụ (1) sau:
“ Cái giống cỏ hoang sống đến khốc liệt và dai dẳng (1). Còn những ngày
chang chang nắng, nắng tưởng vỡ mặt người, nắng như nung như đốt, lá quằn
quại lả đi nhưng cỏ không hề biết đến cái chết, giấu mình trong đất trong nhau
(2). Tôi từng ngạc nhiên đi trên núi trọc Tây Bắc hằng ngày đường, đá sừng
sững đá, bỗng hoa mắt gặp từng bụi cỏ mọc cheo leo sườn vực, như suốt đời tự
nhiên ở đấy, không cần ai biết, không thiết ai chăm (3). Lá cỏ gặp mưa khỏi nói,
ào ạt bung mạnh, xanh ngăn ngắt, non mỡ màng (4).”
Đoạn văn trên đã thể hiện tính mạch lạc hay chưa? Và làm thế nào để xác
định được tính mạch lạc của đoạn văn?
Trong cuốn “ Từ điển tu từ-phong cách, thi pháp học” của Nguyễn Thái
Hòa, ông có nêu: Trong các văn bản ( khoa học, nghệ thuật chính luận…)
mạch văn phải được ưu tiên hàng đầu. Đó là:
- Tính liên tục về thời gian ( tuyến tính) của lời nói.
- Tính lôgic của tư duy: Xếp đặt sự kiện theo chiều hướng nào, ví dụ: nhân->
quả ( quả-> nhân), dữ kiện -> kết luận ( kết luận -> dữ kiện), tóm lại là trật tự lập
luận hàm ẩn hay hiển ngôn
- Tính hiệu lực của cảm xúc: nhằm gây một ấn tượng duy nhất, thống nhất
[tr136].
Còn trong cuốn “ Văn bản và liên kết trong tiếng Việt” của Diệp Quang Ban,
thì lại đưa ra một số hướng xác định như sau:
- Mạch lạc thể hiện trong tính thống nhất đề tài- chủ đề.
- Mạch lạc thể hiện trong tính hợp lôgic của sự triển khai mệnh đề.
- Mạch lạc thể hiện trong trình tự hợp lôgic giữa các câu (mệnh đề).
- Mạch lạc thể hiện trong khả năng dung hợp nhau giữa các hành động ngôn
từ [tr52].
Nếu xét từng tiêu chí một thì đoạn văn trên vẫn được xem xét là có tính
mạch lạc. Chẳng hạn: nó có tính liên tục về thời gian ( tuyến tính) của lời nói (
tôi quan sát nó hàng ngày, vào những ngày nắng gắt cho đến những lúc mưa về.
Tức theo dõi sự sinh trưởng của cỏ.); Về tính lôgic của tư duy, thì văn bản sắp
đặt sự kiện theo hướng hiển ngôn ( lối diễn dịch); Còn ở tiêu chuẩn cuối, có thể
nói văn bản thể hiện tính hiệu lực của cảm xúc rất cao, đó là sự khâm phục của
tác giả về sự trường tồn và sự vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của loài cỏ hoang
để tồn tại. Nó xuyên suốt từ câu (1) đến câu (4) để thể hiện một cảm xúc thống
nhất.
Nếu xét theo hướng của Diệp Quang Ban, thì văn bản trên chưa thể hiện
được rõ tính mạch lạc. Nhưng nếu xét ở tiêu chí một thì nó thể hiện được đề tài-
chủ đề, với lối văn diễn dịch có câu mở đầu là chủ đề “Cái giống cỏ hoang sống
đến khốc liệt và dai dẳng”. Diệp Quang Ban có trích lời của Halliday và Hasan,
tính thống nhất đề tài- chủ đề có tầm quan trọng nhất định đối với việc tạo lập và
giải thuyết văn bản. Mặc dù, đề tài- chủ đề không phải là tiêu chuẩn cần và đủ để
có văn bản. Tính thống nhất đề tài- chủ đề là kết quả của mạch lạc. Như vậy,
theo Halliday và Hasan thì để có một văn bản thì yếu tố thống nhất đề tài-chủ đề
chưa phải là quyết định mà bên cạnh đó còn có những yếu tố khác. Còn để có
tính mạch lạc thì sự thống nhất đề tài là một trong nhiều yêu cầu. Xét tiêu chí
hai, chúng ta thấy ý ở câu (1) và câu (2) vẫn có sự liên kết về nội dung nhưng
sang đến câu thứ (3) nếu là ý triển khai cho câu chủ đề để làm rõ sức sống khốc
liệt và dai dẳng của giống cỏ hoang thì bắt đầu đã có sự không ăn nhập giữa ý
câu (2) và câu (3) vì đơn thuần ý ở câu (3) chỉ là việc nhớ lại của nhân vật “tôi”
khi đi tr