Văn học Việt Nam hiện đại giai đọan 1945-1975 còn đượcgọi lànền
vănhọc cáchmạng.Sởdĩ có têngọi nhưvậy vìvănhọccủa giai đọan này phản
ánh hai cuộc cáchmạngcủa dânt ộc: chống Pháp và chốngMỹ.Vănhọc thời kì
này khá đadạngvề thểlọai nhưng tiêu biểuvẫn là thơ vàvăn xuôi. Thành công
nhất trong thể loại thơ ca là những bài thơ viếtvề người lính. Đây là đề tài xuyên
suốt, chủ đạo cho các nhà thơ khai thác. Chân dung người lính xuất hiện trong thơ
ca rấtphong phú, đa dạng. Đó có thểlà người lính trongchiến đấu, trong sinh ho ạt
hay trên những chặng đường hành quân. Trongsố những nhà thơ viếtvề người
lính, Nguyễn Duy là một người viết rấthayvề đềtàinày. Làmộtnhàthơ -chiến sĩ
nên những bài thơcủa ông phản ánhrất chân th ựcvà sinh động vềngười lính. Qua
những sáng tác của mình, Nguyễn Duy đãthểhiện những vẻ đẹp củangườilính về
tâmhồn,tưtưởng, tìnhcảm, Nhưng đó là trong chiếntranh còn trong thời bình
liệu nhữngvẻ đẹp đó có còn được những người lính gìn giữ và phát huy hay
không? Thêm vào đó,với tinh thần “uốngnước nhớ nguồn”, Đảng, Nhànước và
nhân dân ta ngày càng quan tâmhơn đến đờisốngcủa người lính sau chiến tranh
nhằm giúp chohọ có được cuộcsốngtốt đẹphơn. Vìvậy, người lính luôn làvấn
đề được toàn xãhội quan tâm.
67 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4903 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chân dung người lính trong thơ Nguyễn Duy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
PHAN THỊ THU NGÂN
chân dung người lính trong thơ Nguyễn
Duy
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ văn
Cán bộ hướng dẫn: TS. NGUYỄN LÂM ĐIỀN
Cần Thơ, 5 – 2008
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Văn học Việt Nam hiện đại giai đọan 1945-1975 còn được gọi là nền
văn học cách mạng. Sở dĩ có tên gọi như vậy vì văn học của giai đọan này phản
ánh hai cuộc cách mạng của dân tộc: chống Pháp và chống Mỹ. Văn học thời kì
này khá đa dạng về thể lọai nhưng tiêu biểu vẫn là thơ và văn xuôi. Thành công
nhất trong thể loại thơ ca là những bài thơ viết về người lính. Đây là đề tài xuyên
suốt, chủ đạo cho các nhà thơ khai thác. Chân dung người lính xuất hiện trong thơ
ca rất phong phú, đa dạng. Đó có thể là người lính trong chiến đấu, trong sinh hoạt
hay trên những chặng đường hành quân. Trong số những nhà thơ viết về người
lính, Nguyễn Duy là một người viết rất hay về đề tài này. Là một nhà thơ - chiến sĩ
nên những bài thơ của ông phản ánh rất chân thực và sinh động về người lính. Qua
những sáng tác của mình, Nguyễn Duy đã thể hiện những vẻ đẹp của người lính về
tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, … Nhưng đó là trong chiến tranh còn trong thời bình
liệu những vẻ đẹp đó có còn được những người lính gìn giữ và phát huy hay
không? Thêm vào đó, với tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta ngày càng quan tâm hơn đến đời sống của người lính sau chiến tranh
nhằm giúp cho họ có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Vì vậy, người lính luôn là vấn
đề được toàn xã hội quan tâm.
Hầu hết các công trình của các nhà nghiên cứu thường tập trung vào
một giai đoạn, một đặc điểm nào đó của thơ ca. Vì vậy “chân dung người lính
trong thơ Nguyễn Duy” là một đề tài mới mẻ. Từ trước đến nay có rất ít bài phê
bình, bình luận về hình tượng người lính trong thơ Nguyễn Duy một cách toàn
diện. Nếu có chăng chỉ là những bài phê bình về một tập thơ, một bài thơ viết về
người lính của Nguyễn Duy. Trong khi đó chân dung người lính là một vấn đề cần
nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu sẽ
làm bộc lộ những phẩm chất của người lính về tâm hồn, tư tưởng, tình cảm trong
chiến tranh và cả trong thời bình.
Trước đây người thực hiện chỉ biết tới Nguyễn Duy qua một số bài
thơ: Tre Việt Nam, Hẹn ở trường, Ánh trăng,…Thêm vào đó là niềm yêu thích thơ
ca đặc biệt là thơ ca cách mạng. Vì thế, “chân dung người lính trong thơ Nguyễn
Duy” là một đề tài khá thu hút. Người thực hiện hy vọng thông qua việc nghiên
cứu, tìm hiểu vấn đề này có thể hiểu thêm về thơ ca cách mạng Việt Nam nói
chung, thơ về người lính của Nguyễn Duy nói riêng nhằm làm phong phú thêm
kiến thức văn học của mình.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
Nguyễn Duy là một trong số ít những nhà thơ khi mới xuất hiện đã
không tạo được ấn tượng với bạn đọc. Do đó, số lượng các công trình nghiên cứu
về thơ ông, cụ thể là hình tượng người lính trong thơ ông không nhiều. Trong số
các công trình nghiên cứu người thực hiện tìm được có thể chia thành hai nhóm:
nhóm nghiên cứu về chân dung người lính trong thơ Nguyễn Duy nói chung và
nhóm nghiên cứu về chân dung người lính trong một tập thơ, một bài thơ của
Nguyễn Duy. Sau đây là các ý kiến cụ thể:
Trong Nguyễn Duy-thi sĩ thảo dân , Chu Văn Sơn có đề cập đến chân
dung người lính thông qua hình tượng nhà thơ: “chàng lính này vào chiến trường
sẵn sàng xả hết mình vì nước gặp tai ương, chứ cóc phải vì ham sung đạn, mơ
chiến tích hay màng huân chương” [21 ;265]. Theo Chu Văn Sơn thì người lính
trong thơ Nguyễn Duy là người lính “bất đắc dĩ”. Bởi vì người lính ấy không
ham súng đạn, chiến công mà chỉ vì đất nước. Người lính vào chiến trường một
cách tự nguyện,mang theo một tấm lòng thương người dù là đối với kẻ thù: “đuổi
theo thằng lính địch thì chỉ muốn bắt, không muốn bắn-không ham giết một kẻ
thù, chỉ mong cứu một đời người” [21 ;266]. Người lính ấy còn có tinh thần đồng
đội rất cao, biết cất lên lời ru đồng đội sau mỗi trận đánh, sau những chặng đường
hành quân. Trong tác phẩm, Chu Văn Sơn còn đề cập đến nỗi đau của những
người lính khi chiến tranh vừa kết thúc: “thấy người bạn vĩnh viễn nằm lại bên kia
cầu xa lộ vào cái lúc cùng của cuộc kháng chiến” [21 ;266]
Cũng nói về sự hi sinh của những người lính trước giờ phút chiến
thắng nhưng khác với Chu Văn Sơn, Lê Thành Nghị trong Trước đèn …thơ lại
cho rằng nỗi đau đó không phải của người ở lại mà là của người ra đi: “đau đớn
nhất là những người đã đi suốt chiều dài cuộc chiến tranh và ngã xuống trên cửa
ngõ của hoà bình” [ 19;118 ]. Những người lính ấy đã chiến đấu suốt cả thời trai
trẻ với mong ước được sống trong một đất nước hoà bình nhưng không được. Tác
giả còn nêu lên nguyên nhân của sự hi sinh oanh liệt ấy: “kẻ thù tàn ác tử thủ đến
cùng, chống đối đến cùng, cho dù chúng đã cay đắng nhận ra kết cục bi thảm sẽ
dành cho chúng. Biết bao nhiêu chiến sĩ đã ngã xuống trước sự điên cuồng man
dại trước cửa tử ấy của kẻ thù” [19;118]. Qua đó cho ta thấy được tinh thần chiến
đấu dũng cảm của những người lính.
Vũ Duy Thông trong Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945-
1975”cũng đề cập đến sự hi sinh của người lính. Qua sự hi sinh đó chúng ta thấy
được sức mạnh của tình đồng đội, tình cảm thiêng liêng cao quí của những người
lính. Chính sự hi sinh, mất mát đó giúp “con người hiểu ra mình hơn lúc nào hết”
[23;101 ]. Trong tác phẩm. tác giả còn đề cập đến một thứ tình cảm mà chỉ có
những người lính mới có, đó là tình quân dân, tình người không phải qua những
điều xa lạ mà rất quen thuộc, “qua hơi ấm ổ rơm” [23;102].
Lê Quang Hưng đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về tập thơ Ánh trăng
của Nguyễn Duy thông qua tác phẩm Thơ Nguyễn Duy và Ánh trăng. Đó là: “Ánh
trăng trước tiên vẫn là tiếng nói của một người lính, tiếng nói tìm đến những
người lính- những đồng đội để sẻ chia, trò chuyện” [20;289], Tác giả còn nêu lên
một nhận xét về tập thơ này: “Ánh trăng lần này là viết về người lính, viết cho
người lính [20;289] là những bài thơ hay. Cũng trong tác phẩm này, Lê Quang
Hưng còn đề cập đến hai trong số những bài thơ viết về người lính trong tập Ánh
trăng. Đầu tiên là tâm trạng của người lính sau chiến tranh khi nghe tắc kè kêu
trong thành phố. Đối với người lính trong cuốc sống hôm nay,tiếng tắc kè “là lời
nhắc lại một thời trận mạc đầy gian khổ, là nỗi nhớ đến khắc khoải những người
đồng đội thân thiết đã ngã xuống trước ngày chiến thắng” [20;288]Sau đó là
“một cảnh ngộ, một tình huống éo le” [20;288] của người lính khi hoà bình lập lại
trong Trở lại khúc hát ru. Tác giả nhận xét:nhà thơ “đã thể hiện thành công lòng
nhân đạo cao cả, đức tính quên mình của người chiến sĩ ngay trong cuộc chiến
đấu rất riêng tư mà mang ý nghĩa phổ biến, không có tiếng súng mà vô cùng quyết
liệt” [20;288].
Cũng trong Trước đèn…thơ, Lê Thành Nghị đã khắc họa tâm trạng
của những người vốn quen với đời sống chiến tranh nên “vẫn luôn luôn ám ảnh
bởi những ngày gian nan ấy giữa rừng sâu”, vẫn “giật mình” bởi tiếng tắc kè-
“cái âm thanh của rừng lạc về thành phố” [19;139 ]. Tác giả cho rằng, chính sự
ám ảnh ấy, chính cái giật mình ấy đã tạo ra nét đẹp trong tâm hồn người lính.
Trong Nguyễn Duy- Người thương mến đến tận cùng chân thật, Vũ
Văn Sỹ cũng có một nhận xét về bài Nghe tắc kè kêu trong thành phố. Nếu Lê
Quang Hưng cho rằng tiếng tắc kè là lời nhắc nhở, là nỗi nhớ thì Vũ Văn Sỹ lại
cho rằng tiếng tắc kè gợi cho những người đã từng đến với Trường Sơn những
năm đánh Mỹ “niềm ước ao trong cái âm thanh giản dị nghe hao hao như hai
tiếng “sắp về”, mà biết bao người đã đi suốt tuổi thanh xuân phải đành nằm lại
trước giờ chiến thắng không bao giờ nghe lại được” [22;69]. Tác giả còn đề cập
đến bài thơ Ánh trăng, Vũ Văn Sỹ nhận xét: bài thơ “miêu tả khoảnh khắc tâm
trạng người lính sau chiến tranh vào sống giữa Sài Gòn”. Theo tác giả, cái “giật
mình”khi nhìn thấy vầng trăng của người lính chính là “lời tự nhắc mình không
được quên cái hôm qua” [22;68].
Cũng viết về tập thơ Ánh trăng, Từ Sơn trong Thơ Nguyễn Duy đã đưa
ra nhận định: “Ánh trăng chiếm số lượng lớn vẫn là những bài thơ viết về người
lính và những điều đã cảm nhận trên các nẻo đường chiến tranh” [24,201].
Còn Vũ Quần Phương trong Thơ với lời bình đã nêu những giả thuyết
để cuối cùng khắc họa chân dung người chiến sĩ qua bài Hơi ấm ổ rơm: “Nếu anh
không phải là anh bộ đội mà sự gánh chịu những gian khổ hi sinh đã thành ra
thuộc tính;nếu anh không có lần nào đi bộ, lỡ đường,đêm gió, trời khuya và hơn
nữa, nếu anh không có một vốn hiểu biết từ trong máu thịt về những người dân ấy,
làm sao anh biết được hơi ấm ổ rơm kia?” [20;94]. Đây là lời nhận xét về nhà thơ
thông qua đó làm nổi bật hình tượng người lính trong thơ Nguyễn Duy.
Các ý kiến, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu chỉ đề cập đến
hình tượng người lính như một khía cạnh nhỏ trong tác phẩm, chưa đi sâu vào
miêu tả, khắc họa chân dung người lính một cách có hệ thống, toàn diện như nó
vốn có, cần có.
3.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Thực hiện đề tài này nhằm hai mục đích chính. Thứ nhất, có thể đưa
ra cái nhìn toàn diện nhất về “chân dung người lính trong thơ Nguyễn Duy”:
trong chiến tranh và trong thời bình. Qua đó,làm nổi bật lên hình ảnh người lính
trong cuộc sống gia đình, trong xã hội hiện đại mà hiện nay đang được xã hội
quan tâm. Thứ hai, giúp người thực hiện hiểu thêm về hình ảnh người lính trong
thơ Nguyễn Duy nói riêng, người lính trong thơ ca Việt Nam nói chung.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đây là một đề tài có phạm vi nghiên cứu khá rộng: trước và sau chiến
tranh. Bên cạnh các tập thơ của Nguyễn Duy: Ánh trăng, Mẹ và em, Quà tặng, Về,
người thực hiện còn sử dụng thơ của các tác giả khác cùng thời kì đề cập đến đề
tài trong trong quá trình so sánh, đối chiếu.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Mục tiêu của đề tài là thể hiện vẻ đẹp của người lính trong thơ
Nguyễn Duy nên phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích, bình giảng, bình
luận. Bên cạnh đó, người thực hiên còn sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu.
NỘI DUNG
Chương 1:NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI LÍNH
TRONG THƠ CA VIỆT NAM
1.1KHÁI NIỆM VỀ NGƯỜI LÍNH :
Người lính là một thuật ngữ xuất hiện trong một đất nước từ khi bắt
đầu có chiến tranh và thành lập quân đội.Có nhiều cách hiểu khác nhau về người
lính nhưng để hiểu một cách khoa học,chính xác người thực hiện dựa vào từ điển
để đưa ra một khái niệm đơn giản và dễ hiểu nhất.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, “lính” là một danh từ ,được hiểu theo ba
nghĩa.Thứ nhất , “lính” là người thâmgi quân đội đế quốc,phong kiến.(Ví dụ:lính
khố xanh,lính khố đỏ,…).Thứ hai, “lính” là tên gọi chung của quân nhân ở cấp
thấp nhất,không phải là chỉ huy(Ví dụ:lính tráng).Thứ ba, “lính”dùng để chỉ một
loại quân(Ví dụ:lính dù)
Còn trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam, “lính” là một danh từ được
hiểu theo hai nghĩa.Thứ nhất, “lính” là người làm nhiệm vụ trong lực lượng vũ
trang.Thứ hai, “lính”là người phục vụ nhân dân .
` Người Việt Nam quen gọi “lính”một cách chung chung là “bộ đội”.
“Bộ đội”còn dùng để chỉ một nghề nghiệp.Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt
Nam, “bộ đội” được hiểu theo ba nghĩa .Thứ nhất, “bộ đội” chỉ chung quân đội
của một quốc gia (Ví dụ:bộ đội Việt Nam,bô đội Lào,…)Thứ hai, “bộ đội” là tên
gọi chung của một quân chủng ,binh chủng,bộ đội chuyên môn,một cấp tổ
chức.(Vídụ :bộ đội Hải quân,bộ đội Không quân,…).Thứ ba, “bộ đội” để chỉ một
quân nhân,một người phục vụ trong quân đội.
Kết hợp ba Từ điển chúng ta có một khái niệm đơn giản nhất về
người lính.Người lính là một danh từ dùng để chỉ một người làm nhiệm vụ trong
lực lượng vũ trang.
1.2.NGƯỜI LÍNH –NGUỒN CẢM HỨNG SÁNG TẠO CỦA THƠ CA:
Đối với một dân tộc trải qua nhiều cuộc chiến tranh như Việt Nam thì
người lính trở thành đề tài chủ yếu,trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo của văn
học nói chung là điều đương nhiên.
Từ thời phong kiến ,hình tượng người lính đã đi vào trong thơ ca như
một hình tượng điển hình Thơ ca viết về người lính không chỉ có một mục đích là
miêu tả chân dung của họ mà còn phản ánh cuộc đấu tranh của cả dân tộc Người
lính đi vào trong thơ ca không còn mang dáng vẻ bình thường mà trở nên hiên
ngang hơn,cao lớn hơn với tầm vóc sánh ngang tầm núi sông,đất nước.Trong
Thuật hoàicủa Phạm Ngũ Lão,hình tượng người lính hiện ra với một tư thế hiên
ngang:tư thế cầm ngang ngọn giáo chắn giữ non sông.Ngọn giáo ấy có kích thước
của núi sông và tầm vóc ấy là tầm vóc của đất trời.Người lính ấy tập trung sức
mạnh và tầm vóc của cả dân tộc,trở thành một pho tượng thật kì vĩ về người chiến
sĩ bảo vệ Tổ quốc :
“Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
(Thuật hoài-Phạm Ngũ Lão)
Còn trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã vẽ lên bức tranh toàn
vẹn về tầm vóc kì vĩ của những người cầm vũ khí.Họ là người anh hùng dân tộc
chỉ huy cuộc kháng chiến,là những nghĩa sĩ,nghĩa quân bình dị nhất.Họ đại diện
cho những con người ưu tú nhất của dân tộc đứng lên khởi nghĩa chống giặc
ngoại xâm giành lại độc lập tự do cho đất nước,cho dân tộc.Nói về xuất thân bình
thường của họ:
“Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình”
để làm nổi bật lên những chiến công phi thường của họ
. Nguyễn Đình Chiểu cũng đã từng miêu tả về những con người có xuất
thân bình thường như thế trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.Những nghĩa sĩ đi vào
trong thơ ông không có khí thế và tầm vóc lớn lao như người lính trong Thuật
hoài mà chỉ là những nông dân nghèo khó.Nếu văn học phong kiến miêu tả chân
dung người lính với tính chất ước lệ , kì vĩ thì người lính trong thời kì này hiện ra
rất thật, rất sinh động .Thơ ca viết về người lính là viết về cái họ vốn có chứ
không phải cần có.Nội dung của thơ ca giai đoạn này không chỉ có ngợi ca mà còn
phản ánh.
Trong nền văn học cách mạng trải qua hai cuộc kháng chiến khuynh
hướng chủ đạo của thơ ca cách mạng là khuynh hướng sử thi.Trước những mất
mát , hi sinh của cuộc chiến tranh , hình tượng người lính đi vào thơ ca trở thành
những con người bất tử . Họ như hoá thân vào sông núi , thành một phần của quê
hương xứ sở.
Người lính trong Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân là một chiến
sĩ vô danh.Thế nhưng khi đi vào thơ , người chiến sĩ ấy không những không vô
danh mà còn có tên , một cái tên rất đặc biệt:
“Anh là chiến sĩ Giải phóng quân”
Người lính ấy không còn là một cá nhân mà là đại diện cho cả cộng
đồng , đại diện cho tập thể .Nhắc đến anh người ta không nhớ đến một người mà
nhớ đến nhiều người .Sự ra đi của anh không đồng nghĩa với sự mất mát mà là sự
bất tử.Sự bất tử thể hiện ở dáng đứng của người chiến sĩ.Anh ra đi không để lại gì
cho bản thân , gia đình dù là “một tấm hình”,”một dòng địa chỉ” mà chỉ để lại cho
quê hương đất nước một “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ”.
Ngay cả cái chết của anh cũng là một sự phi thường-chết trong tư thế
tiến công:
“Và anh chết trong khi đứng bắn”
Chính sự phi thường của anh đã làm nên điều kì diệu.Từ một chiến sĩ
vô danh , một anh giải phóng quân bình thường không tên tuổi anh đã để lại cho
đất nước cái tên:
“Tên anh đã thành tên đất nước”
Người lính ấy đã hoá thân thành đất nước.Nếu lúc sống anh đã sống ,
chiến đấu vì đất nước thì khi mất đi anh lại tồn tại cùng đất nước.
Hay trong Bài ca xuân 68,Tố Hữu đã ca ngợi hình ảnh anh giải phóng
quân –một “chàng trai chân đất”.Anh giải phóng quân ấy với những chiến công
của mình từ một con người bình thường trở thành một con người vĩ đại, một con
người của lịch sử.
“Như Thạch Sanh của thế kỉ 20”
Với mục tiêu phản ánh hiện thực ,văn học cách mạng đã tìm cho mình
một hướng đi:viết về hình tượng người lính.Người lính trở thành nguồn sáng tạo
của thơ ca cả trong chiến tranh và trong thời bình vì họ là người tạo nên lịch sử và
đang tiếp tục giữ gìn , phát huy lịch sử vĩ đại ấy của dân tộc.
1.3.VÀI NÉT VỀ CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH TRONG THƠ CA VIỆT
NAM:
1.3.1.Người lính trong thơ ca trung đại:
Thời kì trung đại trong lịch sử Việt Nam được tính từ thế kỉ X ,tức là
sau chiến thắng quân Tống trên sông Như Nguyệt với sự ra đời bài thơ thần Nam
quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt.Trong thời trung đại , con người xuất hiện trong
thơ văn là con người của tầng lớp trên:vua ,quan lại , nhà nho.Người lính trong
thơ ca trung đại cũng theo xu thế đó.Nghĩa là họ phải xuất hiện bên cạnh người
chỉ huy hay trong tư thế của cả dân tộc.Người lính trong văn học thời Trần mang
hào khí Đông A của cả dân tộc, của “ba quân”:
“Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”.
(Múa giáo nôn sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu).
(Thuật hoài –Phạm Ngũ Lão)
Có khi người lính ấy xuất hiện trong tư thế đối mặt với quân thù để
chiến đấu và chiến thắng:
“Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan”
(Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù)
(Tụng giá hoàn kinh sư-Trần Quang Khải)
Trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi , người lính lúc này là
những người yêu nước đứng dậy chống ngoại xâm , bảo vệ độc lập tự do của dân
tộc.Đó là những người có xuất thân bình thường:
“Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình”
Thế nhưng họ đã biết tập hợp , đoàn kết toàn dân:
“Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phất phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”
Biết sử dụng chiến lược , chiến thuật quân sự tài tình:
“Thế trận xuất kì lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục lấy ít địch nhiều”
“…trước điều binh thủ hiểm ,chặt mũi tiên phong
….sau lại sai tướng chẹn đường ,tuyệt nguồn lương thực”
Người lính ấy lại biết nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa trong mọi hoàn cảnh:
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
Những con người có xuất thân bình thường đã làm nên những việc phi
thường trong Bình Ngô đại cáo không khác gì những con người trong Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.Đó là những người chỉ biết:
“Cui cút làm ăn;toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa , đâu tới trường nhung;chỉ biết ruộng trâu , ở
trong làng bộ”
Đối với họ , những công việc của quân đội là những việc xa lạ mà họ
chưa từng nhìn ,chưa từng nghe. Họ chỉ quen việc nhà nông:
“Việc cuốc , việc cày,việc bừa ,việc cấy, tay vốn quen làm ; tập
khiên , tập súng, tập mác, tập cờ , mắt chưa từng ngó”
Họ còn là những con người có xuất thân từ nông dân, theo nghĩa quân
chỉ vì mến mộ:
“Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn
binh;chẳng qua là dân “ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ”
Thế nhưng bằng tấm lòng yêu nước của mình , những người lính ấy đã
chiến đấu bằng những vũ khí thô sơ nhất mà mình có:
“Hoả mai đánh bằng rơm con cúi ,cũng đốt xong nhà dạy đạo
kia;gươm đeo dùng lưỡi dao phai ,cũng chém rớt đầu quan hai nọ”
“Từ tình yêu và lòng kính trọng sâu sắc đối với những tấm gương anh
hùng cầm vũ khí chiến đấu vì độc lập , tự do của Tổ quốc,mà trong toàn bộ lịch
sử văn học Việt Nam viết về chiến tranh , nổi lên một đặc điểm tổng quát của hình
tượng người cầm vũ khí là tính chất kì vĩ, tính lí tưởng của họ” [ 4;151] .
Người cầm vũ khí có thể là người anh hùng dân tộc chỉ huy cuộc
chiến đấu cũng có thể là những nghĩa quân bình dị trong Bình Ngô đại cáo.Điều
đó tạo nên một bức tranh toàn vẹn về tầm vóc kì vĩ của người cầm vũ khí .Hình
ảnh người chiến sĩ còn hiện lên trong sự hoà hợp với ánh sao Bắc đẩu:
“Ném bút đi,sớm nay ra tung mạnh
Kiếm báu đeo ngang lưng ,loé ánh sao Bắc đẩu”
(Nguyễn Thiên Tích)
Tính chất kì vĩ còn thể hiện trong tư thế cầm ngang ngọn giáo chắn
giữ non sông của người chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc trong thơ Phạm Ngũ Lão.Đó là
ngọn giáo phải được đo bằng kích thước của sông núi và tầm vóc của người cầm
vũ khí là tầm vóc của đất trời.
Tóm lại , người lính trong thơ c