Trong lịch sử hằng ngàn năm dựng nước và giữ nước, cách mạng tháng
Tám năm 1945 là một trong những trang sử chói lọi, là một biến cố vĩ đại trong
lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó lật đổ chế độ phong kiến, đập tan xiềng xích nô lệ
của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ trở thành
người làm chủ đất nước, đưa nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở
thành một nước độc lập, đưa Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật, bất hợp
pháp trở thành Đảng hoạt động công khai, hợp pháp.
Thành công của cách mạng tháng Tám có nhiều nguyên nhân, nhưng
nguyên nhân quan trọng nhất là sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng, đứng
đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh và tinh thần đoàn kết, quyết tâm chiến đấu vì độc
lập tự do của nhâ n dân ta. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là kết quả của
quá trình chuẩn bị lực lượng lâu dài, chu đáo của toàn Đảng, toàn dân ta qua 3
phong trào cách mạng: phong trào (1930 - 1931), phong trào (1936 - 1939) và
trực tiếp là phong trào (1939 - 1945).
Ngày 20/8/1945, cách mạng tháng Tám thành công tại Thái Nguyên. Cùng
với nhân dân toàn tỉnh, ngày 19/8/1945 nhân dân các dân tộc huyện Phổ Yên
đồng loạt đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của nhân dân
huyện Phổ Yên đã góp phần tạo điều kiệ n cho quá trình giành chính quyền ở
tỉnh lỵ Thái Nguyên và các địa phương trong khu vực. Có đựơc thành công
nhanh chóng là do nhân dân Phổ Yên đã có quá trình chuẩn bị lực lượng sẵn
sàng cho tổng khởi nghĩa.
91 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1719 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công cuộc chuẩn bị lực lượng và khởi nghĩa giành chính quyền ở phổ yên tỉnh Thái Nguyên (từ 1939 đến 1945), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
®¹i häc th¸i nguyªn
TRƯỜNG ®¹i häc SƯ ph¹m
----------------------------
Lª thÞ quúnh liu
C«ng cuéc chuÈn bÞ lùc LƯỢNG vµ khëi nghÜa giµnh
chÝnh quyÒn ë phæ yªn tØnh th¸i nguyªn
(tõ 1939 ®Õn 1945)
Chuyªn ngµnh: LÞch sö ViÖt Nam
M· sè: 60.22.54
LuËn V¨n th¹c sÜ khoa häc lÞch sö
NGƯỜI HƯỚNG dÉn khoa häc: TS. NguyÔn Duy TiÕn
Th¸i Nguyªn – 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử hằng ngàn năm dựng nước và giữ nước, cách mạng tháng
Tám năm 1945 là một trong những trang sử chói lọi, là một biến cố vĩ đại trong
lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó lật đổ chế độ phong kiến, đập tan xiềng xích nô lệ
của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ trở thành
người làm chủ đất nước, đưa nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở
thành một nước độc lập, đưa Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật, bất hợp
pháp trở thành Đảng hoạt động công khai, hợp pháp.
Thành công của cách mạng tháng Tám có nhiều nguyên nhân, nhưng
nguyên nhân quan trọng nhất là sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng, đứng
đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh và tinh thần đoàn kết, quyết tâm chiến đấu vì độc
lập tự do của nhân dân ta. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là kết quả của
quá trình chuẩn bị lực lượng lâu dài, chu đáo của toàn Đảng, toàn dân ta qua 3
phong trào cách mạng: phong trào (1930 - 1931), phong trào (1936 - 1939) và
trực tiếp là phong trào (1939 - 1945).
Ngày 20/8/1945, cách mạng tháng Tám thành công tại Thái Nguyên. Cùng
với nhân dân toàn tỉnh, ngày 19/8/1945 nhân dân các dân tộc huyện Phổ Yên
đồng loạt đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của nhân dân
huyện Phổ Yên đã góp phần tạo điều kiện cho quá trình giành chính quyền ở
tỉnh lỵ Thái Nguyên và các địa phương trong khu vực. Có đựơc thành công
nhanh chóng là do nhân dân Phổ Yên đã có quá trình chuẩn bị lực lượng sẵn
sàng cho tổng khởi nghĩa.
Về quá trình chuẩn bị lực lượng, tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền ở
huyện Phổ Yên đã được một số cơ quan, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên còn có những nội dung cần được tiếp tục bổ sung, làm rõ hơn như:
vị trí, vai trò của Phổ Yên trong quá trình xây dựng An toàn khu của TW;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
việc đảm bảo giao thông liên lạc giữa phong trào cách mạng các tỉnh miền
xuôi với chiến khu.
Lịch sử dân tộc bao gồm lịch sử các địa phương, muốn nghiên cứu lịch sử
của dân tộc một cách toàn diện thì không thể không tìm hiểu lịch sử của các địa
phương. Việc nghiên cứu lịch sử địa phương sẽ góp phần làm sáng rõ, bổ sung,
làm phong phú thêm lịch sử dân tộc và khẳng định vị trí không thể tách rời của
lịch sử các địa phương
Hiện nay, trước những yêu cầu cải tạo kinh tế, xã hội nhiều địa phương đã
đẩy mạnh quá trình nghiên cứu lịch sử địa phương, đúc kết những bài học kinh
nghiệm quý, phát huy những truyền thống tốt đẹp nhằm đẩy mạnh quá trình
phát triển kinh tế, xã hội địa phương, xây dựng chế độ mới, con người mới xã
hội chủ nghĩa. Qua đó, tìm ra những nhược điểm để khắc phục.
Lịch sử Phổ Yên là một bộ phận của lịch sử tỉnh Thái Nguyên, và là một
bộ phận của lịch sử dân tộc Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu về lịch sử Phổ Yên từ
năm 1939 đến năm 1945 sẽ góp phần làm sáng rõ lịch sử dân tộc giai đoạn này.
Nghiên cứu công cuộc vận động xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
huyện Phổ Yên sẽ giúp chúng ta bổ sung thêm nguồn tư liệu lịch sử, phục dựng
chân xác hoạt động chuẩn bị lực lượng cách mạng ở huyện Phổ Yên. Việc
nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử của địa phương sẽ góp phần khơi dậy giáo dục
truyền thống yêu quê hương, đất nước và nâng cao niềm tin vào Đảng, Nhà nước và
chế độ xã hội chủ nghĩa cho mọi thế hệ nhân dân Phổ Yên hôm nay và mai sau.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tôi chọn vấn đề “Công
cuộc chuẩn bị lực lượng và khởi nghĩa giành chính quyền ở Phổ Yên tỉnh
Thái Nguyên từ 1939 đến 1945” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm qua, công cuộc chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa
giành chính quyền ở huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên đã được một số tác giả,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
cơ quan nghiên cứu ở các góc độ khác nhau, được trình bày trong một số cuốn
lịch sử địa phương và tản mạn ở nhiều tài liệu.
Năm 1970, cuốn “Lịch sử thời kỳ vận động cách mạng tháng Tám tỉnh
Thái Nguyên 1939 – 1945” của Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng, các tác giả đã
phân tích về hoạt động chuẩn bị lực lượng cho cách mạng tháng Tám ở tỉnh
Thái Nguyên, trong đó có trình bày sơ lược về hoạt động cách mạng ở huyện
Phổ Yên trước cách mạng tháng Tám.
Cuốn “Lịch sử cách mạng tháng Tám Bắc Thái” xuất bản năm 1978, đã
viết về hoạt động cách mạng ở Phổ Yên, ATK II và vai trò của nó đối với cách
mạng tháng Tám, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nêu các sự kiện.
Với đề tài “Hoạt động của các chiến sĩ cộng sản ở trại tập trung Bá Vân
thời kỳ 1941 – 1945” tác giả Nghiêm Xuân Thạo với sự hướng dẫn của Giáo sư
Lê Mậu Hãn đã nghiên cứu những hoạt động của các chiến sĩ cộng sản trong
Căng Bá Vân, nhưng chủ yếu dừng lại ở việc thu thập tài liệu.
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Phổ Yên”, tập I (1930 – 1954), xuất bản
năm 1990, mở đầu các tác giả đã khái quát vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, con
người và truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc huyện
Phổ Yên trong quá trình xây dựng bảo vệ đất nước. Trong phần thứ nhất, với
tiêu đề Xây dựng cơ sở Đảng, cuốn sách đã trình bày quá trình Pháp xâm lược
nước ta và cuộc đấu tranh của nhân dân Phổ Yên chống thực dân Pháp, từng
bước hình thành cơ sở cách mạng đầu tiên ở tổng Tiên Thù (xã Tiên Phong
ngày nay), đường dây hoạt động cách mạng từ Căng Bá Vân lan ra Xuân Lãng,
Phúc Thuận, Phi Đơn, Niệm Cuông, Mỏ Chè, Phố Cò…Phần thứ hai, các tác
giả phân tích tình hình thế giới, trong nước và quá trình chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược, sách lược cách mạng của Đảng đã góp phần định hướng thúc đẩy
phong trào cách mạng ở huyện Phổ Yên. Cuốn sách đã dành nhiều trang để
phân tích, trình bày phong trào cách mạng ở tổng Tiên Thù và những hoạt động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
du kích liên quan đến hoạt động của các chiến sĩ cách mạng ở “Căng Bá Vân”.
Về hoạt động chuẩn bị lực lượng trực tiếp cho tổng khởi nghĩa trong cao trào
kháng Nhật, các tác giả đã trình bày về quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị, vũ
trang và chớp thời cơ giành chính quyền ở huyện lỵ Phổ Yên. Tuy cuốn sách đã
dành nhiều trang trình bày về hoạt động chuẩn bị lực lượng, nhưng chưa hệ
thống, chỉ tập trung chủ yếu vào hoạt động chuẩn bị lực lượng vũ trang, có nhiều
sự kiện lịch sử chưa chính xác. Cuốn sách chưa phân tích và trình bày được vai
trò, vị trí của công cuộc chuẩn bị lực lượng tiến đến khởi nghĩa giành chính
quyền của huyện Phổ Yên.
Từ năm 1990 đến năm 1995, trên cơ sở những ý kiến đóng góp của các cán
bộ lão thành cách mạng, của đông đảo cán bộ, đảng viên trong toàn huyện, Ban
thường vụ huyện uỷ Phổ Yên đã thẩm định và xác minh làm rõ nhiều vấn đề
lịch sử trong thời kỳ 1930 – 1954 và quyết định biên soạn lại cuốn sách “Lịch
sử Đảng bộ Phổ Yên”. Trên cơ sở phê phán các loại tư liệu lịch sử, cuốn sách
đã chỉnh lý bổ sung một số sự kiện lịch sử. Tuy nhiên, nội dung cuốn “Lịch sử
Đảng bộ Phổ Yên” xuất bản năm 1995 không có gì thay đổi lớn so với cuốn
“Lịch sử Đảng bộ Phổ Yên” xuất bản năm 1990.
Bài viết “Khởi nghĩa từng phần ở Bắc Thái” của tác giả Phạm Tất Quynh
in trong tạp chí Lịch sử Đảng số 4/1995, đã trình bày về quá trình khởi nghĩa
giành chính quyền ở tỉnh Thái Nguyên từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp
(9/3/1945). Trong đó, đã trình bày và phân tích một số sự kiện lịch sử diễn ra tại
ATKII, trong đó có Phổ Yên.
Năm 1997, Huyện uỷ Đồng Hỷ xuất bản cuốn sách “Sơ thảo lịch sử Đảng
bộ huyện Đồng Hỷ 1930 – 1995”, do Tiến sĩ Nguyễn Xuân Minh làm Chủ biên
đã viết về một số sự kiện cách mạng diễn ra ở nam Đồng Hỷ, bắc Phổ Yên. Đây
là nguồn tài liệu quý để nghiên cứu về lịch sử Phổ Yên và mối quan hệ giữa lịch
sử lịch sử Phổ Yên với các địa phương khác trong khu vực.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Năm 1998, cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ thị xã Sông Công 1985 – 1995” đã
dành phần mở đầu chương I để viết về phong trào cách mạng trên địa bàn huyện
Phổ Yên trước cách mạng tháng Tám, nhưng chỉ khái quát những nét chung chưa
trình bày cụ thể, hệ thống về quá trình chuẩn bị lực lượng trong thời kì 1939 – 1945.
Năm 1999, cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ xã Kha Sơn 1938 – 1995” do Tiến
sĩ Nguyễn Xuân Minh làm chủ biên, đã có trình bày về mối quan hệ giữa các
địa phương trong ATK II và mối quan hệ giữa ATK II với các địa phương khác.
Năm 1999, trong cuốn sách “Thái Nguyên Lịch sử đấu tranh cách mạng và
kháng chiến chống Pháp 1941 -1954” của Ban chỉ huy Quân sự tỉnh Thái
Nguyên, nhóm tác giả cũng đã trình bày khái quát về hoạt động cách mạng ở
huyện Phổ Yên thời kỳ 1939 – 1945.
Trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên”, tập I (1936 -1965) xuất
bản năm 2003, trong phần mở đầu và chương I nhóm tác giả đã có đề cập đến
tình hình Phổ Yên trước cách mạng tháng Tám, nhưng chủ yếu là những thủ
đoạn cai trị của thực dân Pháp. Các tác giả mới chỉ nêu những nét chung về
phong trào cách mạng ở Phổ yên chưa nêu cụ thể, hệ thống về phong trào cách
mạng ở huyện Phổ Yên.
Trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ Phú Bình 1930 - 2005”, các nhà nghiên cứu
đã có phân tích vị trí, mối quan hệ, vai trò của ATK II với các địa phương khác
trong đó có hoạt động trước cách mạng tháng Tám ở huyện Phổ Yên.
Tóm lại, cho đến nay chưa có công trình nào trình bày đầy đủ và hệ
thống về công cuộc chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
ở Phổ Yên từ 1939 đến 1945. Tuy nhiên, những tài liệu nêu trên là nguồn tư
liệu lịch sử có giá trị khoa học, đó là cơ sở để chúng tôi nghiên cứu, hoàn
thiện luận văn của mình.
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Đề tài nghiên cứu công cuộc chuẩn bị lực lượng và khởi nghĩa giành chính
quyền ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên từ 1939 đến 1945.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: chủ yếu huyện Phổ Yên (sau năm 1985 là huyện Phổ
Yên và thị xã Sông Công).
Phạm vi thời gian: từ 1939 đến cách mạng tháng Tám năm 1945.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu công cuộc chuẩn bị lực lượng (lực lượng
chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa) và khởi nghĩa giành chính quyền ở
huyện Phổ Yên.
Khôi phục chân xác công cuộc chuẩn bị lực lượng và diễn biến Cách mạng
tháng Tám năm 1945 tại huyện Phổ Yên. Từ đó, nêu rõ vai trò, vị trí và mối
quan hệ giữa công cuộc chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa ở Phổ Yên với
các địa phương khác.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng trong thời
kỳ trước cách mạng tháng Tám là cơ sở lý luận để nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi khai thác triệt để các nguồn tư
liệu lịch sử, tài liệu lịch sử liên quan đến công cuộc chuẩn bị lực lượng và khởi
nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám tại huyện lỵ Phổ Yên.
Các công trình nghiên cứu Lịch sử có liên quan đến quá trình chuẩn bị lực
lượng cách mạng cho cách mạng tháng Tám tại huyện Phổ Yên: Lịch sử Đảng
bộ, Huyện bộ, Chi bộ, Lịch sử quân sự,…
Các tập hồi ký của các đồng chí lãnh đạo Đảng, cán bộ lão thành cách
mạng. Ngoài các tư liệu, tài liệu thành văn, những lời kể của các nhân chứng
lịch sử là nguồn tư liệu quý, góp phần làm sáng rõ, cụ thể về công cuộc chuẩn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
bị lực lượng và khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám trên
quê hương Phổ Yên.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc để phục dựng lại công cuộc
chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Phổ Yên, tỉnh
Thái Nguyên.
- Phương pháp thống kê, so sánh để thấy được sự phát triển của phong trào
cách mạng ở Phổ Yên so với các địa phương khác.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp để thấy được vai trò, vị trí và mối liên
hệ giữa phong trào cách mạng ở Phổ Yên với các địa phương khác.
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp điền dã, phỏng vấn.
5. Đóng góp của luận văn
- Khôi phục chân thực toàn cảnh quá trình chuẩn bị lực lượng tiến tới giành
chính quyền ở Phổ Yên trong cách mạng tháng Tám (từ 1939 đến 1945).
- Phân tích, đánh giá vai trò của công cuộc chuẩn bị lực lượng trước cách
mạng tháng Tám ở huyện Phổ Yên.
- Luận văn làm rõ vai trò của Phổ Yên trong quá trình tham gia xây dựng
An toàn khu của TW và vai trò “cầu nối liên lạc” giữa phong trào cách mạng
các tỉnh miền xuôi với khu giải phóng.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài còn là nguồn tài liệu phục vụ cho quá trình
giảng dạy lịch sử địa phương, góp phần giáo dục truyền thống yêu quê hương,
đất nước và lòng tự hào dân tộc.
6. Bố cục nội dung luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn được
xây dựng thành 3 chương.
Chương 1. Vài nét về mảnh đất con người và truyền thống lịch sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Chương 2. Công cuộc xây dựng lực lượng cách mạng (từ 1939 đến 3/1945)
Chương 3. Phổ Yên trong cao trào kháng Nhật cứu nước và khởi nghĩa giành
chính quyền (từ tháng 3 đến 8/1945)
Chương 1
VÀI NÉT VỀ MẢNH ĐẤT CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ
1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên
Phổ Yên (nay là huyện Phổ Yên và thị xã Sông Công) là một huyện trung
du, nằm phía nam tỉnh Thái Nguyên, phía đông giáp huyện Hiệp Hoà (Bắc
Giang) và huyện Phú Bình, phía nam giáp Sóc Sơn (Hà Nội), phía tây và tây
bắc tiếp giáp với dãy Tam Đảo (Phúc Yên) và huyện Đại Từ, phía bắc giáp thị
xã Thái Nguyên. Trung tâm của huyện là thị trấn Ba Hàng.
Phổ Yên nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, khí hậu chia làm hai mùa
rõ rệt, mùa mưa và mùa khô rất thuận lợi cho việc phát triển, thâm canh cây
trồng theo mùa. Bên cạnh những thuận lợi, khí hậu Phổ Yên thường xuyên gây
ra tình trạng lũ lụt, đặc biệt là khu vực phía nam của huyện. Vì vậy, nhân dân
Phổ Yên thường xuyên phải kiên cường dũng cảm đương đầu với khó khăn của
thiên nhiên và cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, xây dựng, bảo vệ quê
hương từ đó đã tạo nên truyền thống đoàn kết, tương trợ lẫn nhau.
Diện tích tự nhiên của huyện khoảng 300 km2, thấp dần về phía nam và
đông nam, tạo thành hai vùng với đặc điểm địa hình khác nhau, phía bắc và tây
bắc của huyện là vùng đồi núi, xen kẽ với những dải đồng bằng hẹp, thích hợp
cho việc trồng các cây công nghiệp (chè, lạc,…), cây ăn quả lâu năm (vải, nhãn,
trám,…) và chăn nuôi gia súc lớn (trâu, bò). Phía đông nam và tây nam chủ yếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
là đồng đất tương đối bằng phẳng, liền kề với sông Cầu và sông Công, đất đai
dễ canh tác, thuận tiện cho việc tưới tiêu, phù hợp với trồng lúa nước và các loại
rau màu (su hào, cải bắp, cà chua đặc biệt là khoai lang và sắn).
Ở vị trí trung tâm khu vực miền núi phía bắc, nên ngoài mạng lưới các
tuyến đường liên huyện, liên xã đã được xây dựng và phát triển trong quá trình
phát triển kinh tế, xã hội, trên địa bàn Phổ Yên còn có hai tuyến đường quốc
gia. Đó là đường quốc lộ số 3 từ Hà Nội đi Cao Bằng, đoạn đi qua huyện dài
tới 30 km chạy theo hướng bắc nam và tuyến đường sắt Hà Nội – Quán Triều,
có ga đỗ tại trung tâm huyện lỵ. Hai tuyến đường này, cùng hệ thống đường liên
huyện, liên xã trở thành mạng lưới giao thông thuận lợi cho việc đi lại của nhân
dân, thúc đẩy kinh tế, văn hoá địa phương phát triển.
Ngoài các tuyến đường bộ, sông Cầu và sông Công cùng với hệ thống
kênh máng, ao, hồ không chỉ thuận lợi cho việc tưới tiêu, là nguồn cung cấp
thuỷ sản cho nhân dân trong huyện mà còn là hệ thống giao thông đường thuỷ
hết sức quan trọng. Quan trọng nhất là sông Cầu và sông Công, từ thị xã Thái
Nguyên sông Cầu chảy xuống phía đông và đông nam của huyện Phổ Yên, tạo
thành danh giới tự nhiên với huyện Hiệp Hoà (Bắc Giang). Sông Công chảy
theo hướng bắc xuống nam, chia Phổ Yên thành hai phần. Hai con sông hợp
lưu tại ngã ba Vát (thôn Phù Lôi, xã Thuận Thành). Với lưu lượng nước tương
đối lớn, hai con sông đã mang nhiều phù sa, nguồn lợi về cho huyện và góp
phần quan trọng thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. Trong lịch sử sông Cầu
không chỉ là biên giới tự nhiên bảo vệ phía bắc kinh thành Thăng Long mà còn
là tuyến đường huyết mạch giao lưu kinh tế nối đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh
miền núi phía Bắc. Trên địa bàn huyện Phổ Yên, bến Đại Phùng xưa (nay là
chợ Chã) đã từng là trung tâm giao lưu buôn bán trên bến dưới thuyền lớn nhất
trong khu vực, từ đây hàng hoá ngược lên bến Thượng, Thái Nguyên và xuôi
đến tận Hải Phòng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, cho nên trong suốt quá trình lao
động, chống giặc ngoại xâm tộc người Kinh đã đoàn kết với các tộc người Tày,
Nùng, Sán Dìu,…cùng xây dựng, bảo vệ quê hương Phổ Yên. Sau khi giành
được quyền độc lập tự chủ, các triều đình phong kiến nước ta đã chọn Thái
Nguyên để xây dựng tuyến phòng ngự chống lại giặc phương Bắc. Với vị trí
nằm ở cực nam của tỉnh Thái Nguyên, cho nên Phổ Yên luôn là phên dậu quan
trọng bảo vệ phía Bắc kinh thành Thăng Long - Hà Nội qua các thời kỳ.
Nhìn chung, địa hình Phổ Yên là bán sơn địa, có nhiều đồi núi đất. Trước
cách mạng tháng Tám năm 1945 còn có nhiều rừng rậm rất thuận lợi cho hoạt
động bí mật, xây dựng các cơ sở cách mạng, chuẩn bị cho khởi nghĩa giành
chính quyền.
1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội huyện Phổ Yên
Do đặc điểm điều kiện tự nhiên, cho nên kinh tế chủ yếu là nông lâm
nghiệp mang tính chất tự cung tự cấp, đa số dân cư đã biết làm thuỷ lợi để phát
triển nông nghiệp trồng lúa nước, ngoài ra cư dân trong huyện còn trồng xen
canh các loại cây hoa màu khác (khoai lang, sắn, ngô) và chăn nuôi các loại gia
súc gia cầm. Tại Phổ Yên, nghề thủ công đan lát khá phát triển, trong đó nghề
truyền thống đan lát ở thôn Yên Trung, xã Tiên Phong với sản phẩm chủ yếu là:
thúng, dần, sàng, nong, giỏ, nơm…không chỉ phục vụ cho nhân dân trong
huyện, đã có nhiều lái buôn từ các nơi về cất hàng đem bán cho các địa phương
trong khu vực. Thương nghiệp trong huyện nhìn chung không phát triển, chỉ
được coi là nghề phụ, phần lớn được tiến hành vào lúc nông nhàn hoặc chỉ là sự
trao đổi những nông sản dư thừa thông qua hệ thống chợ làng, ngoại trừ một vài
cửa hàng buôn bán tại chợ Ba Hàng và chợ Chã, mặt hàng trao đổi chủ yếu là
các mặt hàng thiết yếu như muối, diêm,…
Theo dư địa chí của Nguyễn Trãi, Phổ Yên là một trong tám huyện thuộc
phủ Phú Bình, Đạo Thái Nguyên (Bắc Đạo). Địa danh Phổ Yên đã phát triển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
cùng quá trình xây dựng đất nước và chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Qua
các thời kỳ lịch sử, Phổ Yên vẫn thuộc phủ Phú Bình. Năm 1887, thi hành chính
sách chia để trị của thực dân Pháp, Đồng Khánh cho thiết lập lại huyện Phổ
Yên. Khi thành lập khu tự trị Việt Bắc (8/1956) Phổ Yên được chuyển giao
sang cho tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 7/1957, Phổ Yên trở lại là huyện của tỉnh Thái
Nguyên. Năm 1932, Phổ Yên có 7 tổng, 38 làng. Cuối năm 1984, Phổ Yên có
19 xã và 4 thị trấn (thị trấn Ba Hàng, Bãi Bông, Phúc Thuận và Mỏ Chè). Tháng
4/1985, Phổ Yên cắt một xã và một thị trấn (xã Cải Đan và thị trấn Mỏ Chè) để
thành lập thị xã Sông Công, huyện Phổ Yên còn lại là 18 xã và 3 thị trấn [42].
Cư trú trên địa bàn huyện Phổ