Kể từ khi đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường cùng với chính sách mở cửa làm cho nền kinh tế nước ta khởi sắc nhanh chóng và đã đạt được những thành tựu rất to lớn, đời sống của người dân đã được cải thiện và nâng lên đáng kể, bộ mặt đất nước đã thay đổi từng ngày. Hoà theo nhịp tiến chung của xã hội thì ngành Xây dựng cơ bản cũng bước những bước tiến dài so với thời kỳ bao cấp.
73 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1806 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công nghệ thi công Top-Down, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lê đức thành - luận văn thạc sỹ kỹ thuật
Luận văn đăng trên www.ketcau.com (đã xin phép tác giả) ---------------------------------------Trang 1
Lời nói đầu
-----------***-----------
Kể từ khi đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường cùng với chính sách mở cửa
làm cho nền kinh tế nước ta khởi sắc nhanh chóng và đã đạt được những thành tựu
rất to lớn, đời sống của người dân đã được cải thiện và nâng lên đáng kể, bộ mặt đất
nước đã thay đổi từng ngày. Hoà theo nhịp tiến chung của xã hội thì ngành Xây
dựng cơ bản cũng bước những bước tiến dài so với thời kỳ bao cấp. Ngày nay chúng
ta đã có khả năng thiết kế và thi công các nhà cao tầng, các cây cầu hiện đại. Đội
ngũ những người làm kỹ thuật của chúng ta được trang bị đầy đủ kiến thức và có đủ
kinh nghiệm để đảm đương những công trình lớn phức tạp. Khắp mọi miền đất nước
đã xuất hiện nhiều toà nhà cao tầng, kiến trúc hiện đại được xây dựng bằng kỹ thuật
xây dựng tiên tiến nhất. Nhiều toà nhà cao tầng được thiết kế từ 2-->4 tầng hầm
nhằm giải quyết những yêu cầu thực tế do chúng đặt ra. Số nhà cao tầng có tầng
hầm đã được xây dựng ở Việt Nam tuy chưa nhiều nhưng nó cũng đánh dấu một
bước phát triển của công nghệ thi công tầng hầm ở Việt Nam. Chúng ta ai cũng biết
việc xây dựng các công trình ngầm nói chung là phức tạp vì nó phụ thuộc rất nhiều
vào địa chất nơi công trình được xây dựng, phụ thuộc vào thiết bị, máy móc cũng
như trình độ kỹ thuật, tay nghề của đội ngũ công nhân, cán bộ kỹ thuật. Đối với
chúng ta thì công nghệ thi công tầng hầm là khá mới mẻ, đặc biệt khi công nghệ đó
là "Thi công từ trên xuống". Vấn đề này hiện nay được rất nhiều nhà thầu và các
chuyên gia xây dựng quan tâm đặc biệt vì theo xu thế phát triển của đất nước thì số
lượng nhà cao tầng có tầng hầm ở Việt Nam sẽ ngày một tăng nhanh, cũng như
chiều sâu của tầng hầm sẽ khá lớn, đòi hỏi phải có được một quy trình công nghệ
cho thi công tầng hầm. Trong luận văn này, chúng tôi cũng mạnh dạn hệ thống lại
các yêu cầu cần giải quyết trong quá trình thi công tầng hầm (theo phương pháp
truyền thống cũng như theo phương pháp "Top-down"), có đề xuất một số giải pháp
hệ chống đỡ tạm cho tầng hầm cũng như các mối nối trong hệ kết cấu của tầng hầm.
Các vấn đề chúng tôi nêu ra mới chỉ dừng lại ở mức độ lý thuyết mà chưa qua kiểm
chứng thực nghiệm vì rằng có quá ít công trình dạng này được thi công tại Việt
Nam. Hy vọng rằng đây sẽ là bước mở đầu để tiến tới lập ra được một quy trình xây
lê đức thành - luận văn thạc sỹ kỹ thuật
Luận văn đăng trên www.ketcau.com (đã xin phép tác giả) ---------------------------------------Trang 2
dựng hay một chỉ dẫn kỹ thuật cho công tác thi công tầng hầm theo phương pháp
"Top-down".
Vì trình độ có hạn và tài liệu rất ít ỏi nên chắc chắn rằng luận văn còn nhiều vấn
đề chưa đề cập hoặc chưa được giải quyết thoả đáng. Kính mong được sự quan tâm
góp ý của các giáo sư tiến sỹ và các chuyên gia về lĩnh vực này.
Trong quá trình làm luận văn chúng tôi được sự giúp đỡ góp ý rất quý báu của các
cán bộ giảng dạy Bộ môn công nghệ và tổ chức xây dựng đặc biệt là thầy hướng dẫn
Tiến sỹ Nguyễn Đình Thám. Chúng tôi xin cám ơn các cán bộ giảng dạy trẻ trong
Bộ môn đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi hoàn thành luận văn đúng thời hạn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2002
lê đức thành - luận văn thạc sỹ kỹ thuật
Luận văn đăng trên www.ketcau.com (đã xin phép tác giả) ---------------------------------------Trang 3
chương I : tình hình xây dựng nhà có tầng hầm ở việt nam
1. Khái niệm về tầng hầm :
Trong các công trình xây dựng dân dụng nhà nhiều tầng trên thế giới, người ta quy định phần
tầng nhà là từ cao trình mặt đất tự nhiên trở lên. Nhà nhiều tầng có thể hiểu là từ 4 tầng trở lên,
khi số tầng lên đến vài chục tầng thì người ta gọi đó là nhà cao tầng. Khái niệm cao tầng hiện
nay tạm định lượng như nhà cao dưới 9 tầng gọi là nhà thấp tầng. Nhà từ 10 đến 24 tầng gọi là
nhà cao trung bình. Nhà có từ 25 tầng trở lên được gọi là nhà cao tầng.
Trong khu nhà cao tầng bao gồm tầng trệt (Tầng 1) sàn của nó nằm ngang trên mặt đất, tiếp
theo là các tầng 2,3,4... có độ cao sàn dương. Còn những tầng tiếp theo ở thấp hơn so với mặt
đất (nằm dưới tầng trệt) đều được gọi là tầng hầm.
Tầng hầm có thể nửa nổi nửa chìm hoặc nằm hoàn toàn trong lòng đất. Thường ở những toà
nhà cao tầng thì tầng hầm gồm 2 tầng trở lên, tầng hầm trên cùng có thể là nửa nổi nửa chìm
một khi ta muốn tận dụng sự thông gió, chiếu sáng tự nhiên, số lượng tầng hầm. Số lượng tầng
hầm cho nhà nhiều tầng chủ yếu phụ thuộc vào ý đồ sử dụng của chủ đầu tư, tuy nhiên nó cũng
phụ thuộc vào chiều cao của công trình và nền đất dưới công trình cũng như kỹ thuật xây dựng
tầng hầm hiện tại.
2. Xu hướng phát triển nhà có tầng hầm :
Nhà có tầng hầm đã có từ lâu trên thế giới, nó trở thành phổ biến và gần như là một thông lệ
khi xây dựng nhà nhiều tầng. ở châu Âu do đặc điểm nền đất tương đối tốt, mực nước ngầm
thấp, kỹ thuật xây dựng tiên tiến và cũng do nhu cầu sử dụng nên hầu như nhà nhiều tầng nào
cũng có tầng hầm, thậm chí các siêu thị chỉ có 2-3 tầng nhưng có tới 2-3 tầng hầm. Công nghệ
này còn được dùng để thi công các ga ngầm dưới lòng đường, đường cao tốc ngầm ở Paris.
Việc xây dựng tầng hầm trong nhà nhiều tầng là điều rất bình thường nó trở nên qua quen
thuộc mỗi khi thiết kế và thi công vì nó giải quyết được các vấn đề phát sinh do nhà nhiều tầng
đặt ra.
ở châu á nói chung có nhiều số nhà nhiều tầng có tầng hầm chưa phải là nhiều, nhưng ở một
số nước và vùng lãnh thổ như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc... thì số lượng nhà nhiều tầng
có tầng hầm chiếm tỉ lệ khá cao, số lượng tầng hầm trong các nhà từ 1 đến 4 tầng hầm.
ở Việt Nam ta, nhà nhiều tầng có tầng hầm cũng chỉ mới xuất hiện gần đây tại nhũng công
trình liên doanh với nước ngoài hoặc các công trình vốn 100% vốn nước ngoài. Ta có thể kể đến
một số công trình có tầng hầm ở TP. Hồ Chí Minh và thử đô Hà Nội, nhưng số tầng hầm mới ở
mức từ 1 - 2 tầng hầm.
Dưới đây là bảng thống kê ví dụ về nhà cao tầng có tầng hầm ở Việt Nam và thế giới. :
tt Công trình Số tầng nổi Số tầng hầm Độ sâu đào(m)
1
2
3
4
5
Thư viện Anh Quốc
Commerce Bank - Frankfruit
Central Plaza - Hồng Kông
Chi Thong - Đài Loan
Chung Wei - Đài Loan
7
56
75
14
20
4
3
3
3
4
23
12
16
13,6
14,7
lê đức thành - luận văn thạc sỹ kỹ thuật
Luận văn đăng trên www.ketcau.com (đã xin phép tác giả) ---------------------------------------Trang 4
6
7
8
9
10
Tai Pao - Đài Loan
Chung Yian
Sen Jue - Đài Loan
Trung tâm sách - Hà Nội
Vietcombank - Hà Nội
Sun way Hotel - Hà Nội
27
19
17
6
22
11
4
3
3
1
2
2
16,2
16,2
12,5
4,6
11,0
11,0
Qua bảng thí dụ trên ta thấy các công trình thường có thống kê từ 1 --> 4 tầng hầm, chiều sâu
hố đào từ 5m --> 10m. Tất nhiên trong tương lai sẽ có những nhà có tầng hầm sâu hơn hiện nay
do nhu cầu và công nghệ xây dựng phát triển đủ để có thể thi công được và bảo đảm yêu cầu về
chất lượng.
Tầng hầm trong các nhà cao tầng sẽ là vấn đề quen thuộc trong ngành xây dựng trên thế giới
kể cả các nước đang phát triển, nó sẽ rất phù hợp cho các thành phố tương lai được thiết kế hiện
đại, đảm bảo được yêu cầu về môi sinh, môi trường và đáp ứng sở thích của con người như là
nhà có vườn treo, thành phố thông thoáng 3 chiều hay những căn hộ được thiết kế theo dạng
"biệt thự" trong các nhà nhiều tầng. Ta có thể nói rằng tầng hầm trong nhà nhiều tầng là một
nhu cầu khách quan vì nó có những ưu việt ta phải tận dụng.
3. Sự cần thiết của tầng hầm trong nhà nhiều tầng :
a. Do nhu cầu sử dụng :
Ngay từ lâu ở các nước công nghiệp phát triển, nhu cầu về nhà cửa tăng nhanh, các phương
tiện giao thông cũng tăng đáng kể cộng với mức sống khá cao đã kéo theo một loạt các hoạn
động dịch vụ, trong khi đó diện tích để xây dựng lại hạn hẹp vì thế việc ra đời của nhà nhiều
tầng là hiển nhiên. Một khi nhà nhiều tầng ra đời, nó đòi hỏi xã hội phải đáp ứng những nhu
cầu do bàn thân nó sinh ra. Nói một cách khác đi, đó chính là nhu cầu của cư dân sống trong
các khu nhà đó. Vì thế việc xây dựng tầng hầm đã ra đời và phát triển mạnh nhằm :
ã Làm kho chứa hàng hoá phục vụ sinh hoạt của cư dân trong toà nhà.
ã Làm tầng phục vụ sinh hoạt công cộng như bể bơi, cửa hàng, quán bar...
ã Làm gara ô tô, xe máy.
ã Làm tâng kỹ thuật để giải quyết các vấn đề điều hoà không khí, xử lý nước thải, lắp đặt
máy móc phục vụ giao thông (thang máy), cấp nhiệt...
ã Làm nơi cư trú tạm thời khi có sự cố xảy ra như chiến tranh.
ã ở các ngân hàng, kho bạc nó còn là nơi cất trữ tài liệu mật, tiền bạc, vàng, đá quý và
các tài sản có giá trị cao của quốc gia.
* ở Việt Nam : Tình hình cũng không ngoài xu hướng phát triển của thế giới, chỉ có điều là
ta luôn đi sau vài thập niên so với các nước tiên tiến. Cho mãi tới những năm chín mươi của
thế kỷ trước các toà nhà nhiều tầng mới được xây dựng tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, đi
kèm theo nó là các tầng hầm được thiết kế, thi công theo các kỹ thuật tiên tiến nhất. Ngày
nay, nhu cầu và xu thế của tầng hầm đã là quá rõ ràng đối với nhà nhiều tầng. Sự ra đời của
nó hoàn toàn nhằm đáp ứng nhu cầu vừa nêu trước.
b. Về mặt nền móng :
Ta thấy nhà nhiều tầng thường có tải trọng rất lớn ở chân cột, nó gây ra áp lực rất lớn lên
nền và móng, vì vậy khi làm tầng hầm ta đã giảm tải cho móng vì một lượng đất khá lớn trên
móng đã được lấy đi, hơn nữa khi có tầng hầm thì móng được đưa xuống khá sâu, móng có
thể đặt vào nền đất tốt, cường độ của nền tăng lên (Khi ta cho đất thời gian chịu lực). Thêm
lê đức thành - luận văn thạc sỹ kỹ thuật
Luận văn đăng trên www.ketcau.com (đã xin phép tác giả) ---------------------------------------Trang 5
vào đó tầng hầm sâu nếu nằm dưới mực nước ngầm, nước ngầm sẽ đẩy nổi công trình lên
theo định luật Acsimet như thế nó sẽ giảm tải cho móng công trình và đồng thời cũng giảm
lún cho công trình.
c. Về mặt kết cấu :
Đối với nhà nhiều tầng không có tầng hầm, độ sâu ngàm vào đất là nông (từ 2-3m), độ ổn
định của công trình không cao do trọng tâm của công trình ở trên cao. Khi nhà có tầng hầm,
trọng tâm của công trình sẽ được hạ thấp làm tăng tính ổn định tổng thể của công trình. Hơn
nữa, tường, cột, dầm sàn của tầng sẽ làm tăng độ ngàm của công trình vào đất, tăng khả năng
chịu lực ngang như gió, bão, lụt động đất...
d. Về an ninh quốc phòng :
Tại trụ sở các cơ quan, công sở có tầng hầm thì nó sẽ được sử dụng làm nơi cất giữ tiền bạc
kim loại quý.... Còn ở những khu định cư thì tầng hầm sẽ là nơi tránh bom đạn tốt nhất cho cư
dân mỗi khi xảy ra chiến tranh.
4. Kết luận
Qua đây ta có thể khẳng định việc thiết kế, xây dựng các công trình dân dụng có tầng hầm ở
Việt Nam là cần thiết. Chúng ta đã, đang và sẽ xây dựng nhiều toà nhà có tầng hầm để phục vụ
dân sinh. Điều này chúng ta sẽ hoàn toàn làm được vì chúng ta có đội ngũ các Kiến trúc sư, Kỹ
sư thiết kế, Kỹ sư thi công có đủ năng lực, tiếp cận và cập nhật được các kiến thức thực tế trên
thế giới cũng như máy móc thi công và công nghệ thi công tiên tiến.
Trong giới hạn luận văn này, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến lĩnh vực kỹ thuật và tổ chức thi
công nhà có tầng hầm theo các phương pháp truyền thống và đặc biệt đi sâu về phương pháp thi
công "Thi công từ trên cao xuống" còn gọi là phương pháp "TOP DOWN".
lê đức thành - luận văn thạc sỹ kỹ thuật
Luận văn đăng trên www.ketcau.com (đã xin phép tác giả) ---------------------------------------Trang 6
chương II : Công nghệ thi công tầng hầm trong nhà nhiều tầng
Việc thi công tầng hầm luôn đi đôi với việc thi công đất vì tầng hầm nằm dưới mặt đất. Ngày nay
với công nghệ thi công đất đã có rất nhiều tiến bộ chủ yếu nhờ vào các máy móc thiết bị thi công
hiện đại và các quá trình thi công hợp lý cho phép thi công được những công trình phức tạp, ở
nhũng địa hình khó khăn. Để tiện cho việc so sánh, ta có thể hệ thống các công nghệ thi công
chính như sau đây :
b. Xây nhà
Hình 1
a. Đào đất
1. Phương pháp đào đất trước sau đó thi công nhà từ dưới lên :
Đây là phương pháp cổ điển được áp dụng khi chiều sâu hố đào không lớn, thiết bị thi công
đơn giản. Toàn bộ hố đào được đào đến độ sâu thiết kế (Độ sâu đặt móng), có thể dùng phương
pháp đào thủ công hay đào máy phụ thuộc vào chiều sâu hố đào, tình hình địa chất thuỷ văn,
vào chiều sâu hố đào, tình hình địa chất thuỷ văn, vào khối lượng đất cần đào và nó còn phụ
thuộc vào thiết bị máy móc, nhân lực của công trình. Sau khi đào xong, người ta cho tiến hành
xây nhà theo thứ tụ bình thường từ dưới lên trên, nghĩa là từ móng lên mái. Để đảm bảo cho hệ
hố đào không bị sụt lở trong quá trình thi công người ta dùng các biện pháp giữ vách đào theo
các phương pháp truyền thống nghĩa là ta có thể đào theo mái dốc tự nhiên (Theo góc j của
đất). Hoặc nếu khi mặt bằng chật hẹp không cho phép mở rộng ta luy mái dốc hố đào thì ta có
thể dùng cừ để giữ tường hố đào.
Ưu điểm của phương pháp này là thi công đơn giản, độ chính xác cao, hơn nữa các giải pháp
kiến trúc và kết cấu cho tầng hầm cũng đơn giản vì nó giống phần trên mặt đất. Việc xử lý
chống thấm cho thành tầng hầm và việc lắp đặt hệ thống mạng lưới kỹ thuật cũng tương đối
thuận tiện dễ dàng. Việc làm khô hố móng cũng đơn giản hơn, ta có thể dùng bơm hút nước từ
đáy móng đi theo hố thu nước đã được tính toán sẵn.
Nhược điểm của phương pháp này là : khi chiều sâu hố đào lớn sẽ rất khó thực hiện, đặc biệt
khi lớp đất bề mặt yếu. Khi hố đào không dùng hệ cừ thì mặt bằng phải rộng đủ để mở taluy cho
hố đào. Xét về mặt an toàn cho các công trình lân cận hay cho những công trình xây chen thì
biện pháp này không khả thi, còn xét về chiều sâu hố đào khi quá lớn nếu dùng biện pháp này ta
sẽ phải cử thành nhiều đợt, nhiều bậc và độ ổn định cũng như an toàn cho thi công ta phải bàn
đến.
Qua thực tế ta có thể đưa ra các phương án giữ vách hố đào theo phương pháp thi công cổ
điển như :
lê đức thành - luận văn thạc sỹ kỹ thuật
Luận văn đăng trên www.ketcau.com (đã xin phép tác giả) ---------------------------------------Trang 7
- Đào đất theo độ dốc tự nhiên, phương pháp này chỉ áp dụng khi hố đào không sâu, với đất
dính, góc ma sát trong j lớn, mặt bằng thi công rộng rãi đủ để mở taluy mái dốc hố đào và để
thiết bị thi công cũng như chứa đất được đào lên.
- Dùng ván cừ đặt thành nhiều tầng (Không chống). Hố đào được đào thành nhiều bậc, mở
rộng phía trên áp dụng cho trường hợp khi ván cừ không đủ dài để chống một lần hoặc khi hố
đào quá sâu, thi công đào đất bằng phương pháp thủ công và khi có yêu cầu hố đào phải
thông thoáng để thi công tầng hầm.
- Dùng ván cừ có chống hoặc có neo, hố đào được đào thẳng đứng. Dùng cừ có chống khi
cột chống không ảnh hưởng đến thi công tầng hầm, còn khi có sự đòi hỏi thoáng đãng trong
hố đào để thi công tầng hầm ta phải dùng neo, neo này được neo trên mặt đất. Loại ván cừ có
chống hoặc neo dùng khi áp lực đất lớn.
a Ê j
b. Đào đất có cừ không chống
H : Chiều sâu hố đào
h : Chiều sâu ngàm của cừ
Hình 2
d. Ván cừ giữ vách hố đào
không chống dùng khi các cột
chống không ảnh huởng đến thi
công tầng hầm
e. Ván cừ giữ vách có neo khi
cần thông thoáng cho hố đào
khi thi công tầng hầm
c. Hố đào đào thành nhiều tầng
có cừ chắn không chống
a Ê j
a. Đào đất theo mái dốc
tự nhiên
Thiết bị thi công đào đất : Đối với các loại hố đào ta vừa kể trên, việc thi công đào đất có thể
được tiến hành bằng cơ giới hay thủ công. Với phương pháp thi công cơ giới ta có thể dùng các
loại máy đào một gầu. Cụ thể là khi chiều sâu hố đào H Ê 4m, ta dùng máy đào gầu nghịch
dung tích gầu phổ biến là 0,15m3 đến 0,5m3 nó có ưu điểm là đứng trên đào xuống thấp nên có
thể đào những nơi có nước và việc đưa vật liệu lên ô tô là dễ dàng, nhanh gọn. Khi nước ngầm ở
lê đức thành - luận văn thạc sỹ kỹ thuật
Luận văn đăng trên www.ketcau.com (đã xin phép tác giả) ---------------------------------------Trang 8
thấp hơn cao trình máy đứng ta có thể dùng máy đào gầu thuận, nó có thể đào được những hố
đào khá sâu rất thích hợp khi kết hợp với đào và đổ đất lên xe vận chuyển đi. Tuy nhiên loại
máy này yêu cầu đường đi cho xe ô tô vận chuyển phải di chuyển liên tục tốn công làm đường.
Ngoài hai loại máy chính trên người ta còn có thể sử dụng máy đào gầu dây và máy đào gầu
ngoạm. Với máy đào dây thích hợp nhất khi đào móng sâu có nước, loại này năng suất thấp so
với máy đào gầu thuận và gầu nghịch. Với máy đào gầu ngoạm thì sử dụng để đào những hố
đào thẳng đứng, nó dùng để đào trong lòng giếng, đào hố sâu có thành cọc ván cừ hay tường
chắn. Nó chỉ thích hợp cho đất hạt yếu hoặc đất hạt rời. Khi đào chỗ đất rắn ta phải làm tơi đất
trước.
Với những công trình mà khối lượng đào đất không lớn, hố đào không sâu (<500m3) người ta
thiên về đào bằng thủ công. Dụng cụ để đào là các dụng cụ cổ truyền như cuốc, xẻng, mai, cuốc
chim, kéo cắt đất, choòng, búa. Để vận chuyển đất người ta dùng quang gánh, xe cút kít một
bánh, xe cải tiến, đường goòng.... Để thi công đạt năng suất cao người ta phải chọn dụng cụ
thích hợp đồng thời cũng phải tìm cách giảm khó khăn cho thi công như tìm cách giảm khó
khăn cho thi công cũng như làm tăng hoặc giàm độ ẩm của nền đất hoặc làm khô mặt bằng....
Sau khi đã thi công xong phần đào đất móng, người ta tiến hành thi công nhà theo các phương
pháp thông thường như ta đã biết, nghĩa là thi công móng nhà sau đó tiến hành đến phần thân
nhà.
2. Thi công tường nhà làm tường chắn đất.
ở mục II.1 ta đã trình bày các phương pháp thi công đất truyền thống nhưng nó chỉ thích hợp
cho những tầng hầm có chiều sâu không lớn, mặt bằng thi công rộng rãi và cách xa các công
trình có sẵn còn đối với những công trình xây chen như ở thành phố Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh với nhũng nàh nhiều tầng có từ 1 --> 3 tầng hầm trở lên thì việc áp dụng các phương pháp
truyền thống là không khả thi và kém về hiệu quả về kinh tế, chính vì lẽ đó người ta đưa ra một
trình tự thi công như sau : Trước khi thi công đào đất người ta tiến hành thi công phần tường bao
của tầng hầm trước sau đó tiến hành đào đất trong lòng tường bao này đến đáy tầng hầm (đáy
móng). Trường hợp móng của công trình là cọc khoan nhồi thi người ta cũng tiến hành thi công
cọc cùng lúc với tường bao. Phần kết cấu chính của tầng hầm cũng như của công trình được thi
công từ dưới lên trên, từ móng đến mái (Bottom-up). Ta có thể gọi đây là phương pháp thi công
tường trong đất.
Phương pháp này có ưu điểm rất lớn là không cần dùng ván cừ để giữ vách hố đào. Trình tự
thi công công trình vẫn theo thứ tự như xưa tức là xây từ dưới xây lên. Để áp dụng được phương
pháp này thì tường bao của công trình phải được thiết kế bảo đảm chịu được tải trọng do áp lực
đất gây ra với nó đồng thời nó đủ điều kiện để thi công tường bao bằng phương pháp "cọc
barret".
Nhược điểm của nó là thời gian thi công dài và phải thi công xong tường bao, cọc (nếu có) rồi
mới đến đào đất và xây công trình. Nếu trường hợp tường bao không tự chịu áp lực thì ta phải có
biện pháp chống tường bằng các hệ chống đỡ hoặc bằng neo bê tông.
Trên hình 3 trình bày 3 giai đoạn thi công theo phương pháp tường trong đất từ dưới lên : Giai
đoạn đầu (Hình 3a) ta tiến hành thi công tường trong đất từ dưới lên, giai đoạn 2 (Hình 3b) ta
tiến hành đào đất trong lòng tường bao và giai đoạn 3 (Hình 3c) ta tiến hành thi công tầng hầm
tự dưới lên.
lê đức thành - luận văn thạc sỹ kỹ thuật
Luận văn đăng trên www.ketcau.com (đã xin phép tác giả) ---------------------------------------Trang 9
Đào đất
b)a)
c)
* Các phương pháp chống tường bao : Tường bao ở đây có chiều sâu khá lớn, chịu áp lực
đất cũng khá lớn nên các phương pháp chống đơn giản ở mục II.1 không áp dụng được, nếu có
thì độ tin cậy cũng không cao. Vì vậy ta phải dùng các biện pháp chống tường bao như sau :
a) D