Thực tếsáng tác và tiếp nhận thơca từxưa đến nay cho thấy, mặc dù xã
hội phát triển ngày một văn minh hơn, mặc dù bây giờnhân loại đang bước vào
thời đại của công nghệkỹthuật cao, và mặc cho người ta không ngừng đổi thay
những quan điểm vềthơca do những ý thức hệtưtưởng khác nhau của những thời
đại khác nhau chi phối, thì thơca vẫn tồn tại bên cạnh con người nhưmột nhu cầu
tinh thần không thểthiếu. Cuộc sống càng xô bồ, càng làm con người mệt mỏi thì
con người lại càng muốn giải phóng tinh thần mình ra khỏi quy luật sinh tồn - diệt
vong của thếgiới vật chất đểtìm vềvới nghệthuật. Thơca vẫn là nơi đểngười ta
trởvề. Thơca vẫn là tri âm tri kỷcủa con người.
Nhưng do đâu mà thơca có sức hút mạnh mẽnhưvậy? Cái gì đã kéo người
ta đến với thơ? Cái gì đã khiến người ta phải sáng tác và đọc thơnhưmột nỗi đam
mê không cưỡng lại được? Là một người yêu thơ, tôi luôn bịnhững câu hỏi ấy ám
ảnh. Và rồi nỗi ám ảnh ấy thôi thúc tôi đi vào thếgiới thơ đểtìm câu trảlời. Đềtài
“Đặc điểm thi pháp của thơca nhìn từgóc độtác động” là một hướng nghiên
cứu những căn cơcủa việc sáng tác thơvà những đặc điểm nghệthuật trong thơmà
thi nhân đã sửdụng nhưmột thủpháp đểchuyển tải thông điệp từtrái tim mình
đến với độc giả đểtác động đến lý trí và cảm xúc của họ. Trong phần nghiên cứu
một tác gia điển hình cho xu hướng thơtác động, chúng tôi chọn nhà thơTốHữu
bởi những đóng góp to lớn của ông dành cho thơca và cách mạng Việt Nam.
160 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2574 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm thi pháp của thơ ca nhìn từ góc độ tác động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_________________________
TRẦN THANH BÌNH
ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA THƠ CA
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TÁC ĐỘNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ NGỌC TRÀ
Thành Phố Hồ Chí Minh - 2008
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thực tế sáng tác và tiếp nhận thơ ca từ xưa đến nay cho thấy, mặc dù xã
hội phát triển ngày một văn minh hơn, mặc dù bây giờ nhân loại đang bước vào
thời đại của công nghệ kỹ thuật cao, và mặc cho người ta không ngừng đổi thay
những quan điểm về thơ ca do những ý thức hệ tư tưởng khác nhau của những thời
đại khác nhau chi phối, thì thơ ca vẫn tồn tại bên cạnh con người như một nhu cầu
tinh thần không thể thiếu. Cuộc sống càng xô bồ, càng làm con người mệt mỏi thì
con người lại càng muốn giải phóng tinh thần mình ra khỏi quy luật sinh tồn - diệt
vong của thế giới vật chất để tìm về với nghệ thuật. Thơ ca vẫn là nơi để người ta
trở về. Thơ ca vẫn là tri âm tri kỷ của con người.
Nhưng do đâu mà thơ ca có sức hút mạnh mẽ như vậy? Cái gì đã kéo người
ta đến với thơ? Cái gì đã khiến người ta phải sáng tác và đọc thơ như một nỗi đam
mê không cưỡng lại được? Là một người yêu thơ, tôi luôn bị những câu hỏi ấy ám
ảnh. Và rồi nỗi ám ảnh ấy thôi thúc tôi đi vào thế giới thơ để tìm câu trả lời. Đề tài
“Đặc điểm thi pháp của thơ ca nhìn từ góc độ tác động” là một hướng nghiên
cứu những căn cơ của việc sáng tác thơ và những đặc điểm nghệ thuật trong thơ mà
thi nhân đã sử dụng như một thủ pháp để chuyển tải thông điệp từ trái tim mình
đến với độc giả để tác động đến lý trí và cảm xúc của họ. Trong phần nghiên cứu
một tác gia điển hình cho xu hướng thơ tác động, chúng tôi chọn nhà thơ Tố Hữu
bởi những đóng góp to lớn của ông dành cho thơ ca và cách mạng Việt Nam.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Trong sáng tác và trong cả hoạt động nghiên cứu, thơ ca không còn là một
lĩnh vực thần bí. Trên thế giới và ở Việt Nam, đã có không ít các công trình nghiên
cứu về lý luận thơ ca, từ những công trình tầm cỡ thế giới như "Nghệ thuật thi ca"
của Aristote, "Văn tâm điêu long" của Lưu Hiệp hay "Tùy viên thi thoại" của Viên
Mai đến những công trình nghiên cứu của các nhà lý luận phương Tây và của các
nhà lý luận Việt Nam… Mặc dù đã khai thác bao quát hết các vấn đề thuộc về đặc
trưng, bản chất, chức năng hoặc có cả kinh nghiệm sáng tác thơ, nhưng các công
trình ấy không dừng lại tìm hiểu thi pháp của thơ như một hình thức nghệ thuật có
khả năng tác động vào công chúng độc giả. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn thu thập được
ở những tác giả ấy những ý kiến khẳng định ý nghĩa tác động của thơ ca từ những
góc nhìn khác nhau:
Từ góc nhìn của các nhà lý luận và sáng tác:
Trong tác phẩm "Dẫn luận nghiên cứu văn học", Pospelov cho rằng "các
tình cảm của nhà thơ trữ tình có uy lực "lây truyền" người đọc, trở thành tài sản
tinh thần của người đọc" [114, tr.332]. Công trình của ông khám phá đặc điểm của
tác phẩm trữ tình từ góc nhìn đặc điểm cấu trúc của lý luận truyền thống qua việc
nghiên cứu các đối tượng, nội dung, các dạng thức của trữ tình, đặc điểm biểu cảm
của lời văn trữ tình… và chỉ dừng lại ở những đặc điểm chung nhất của thể loại trữ
tình chứ không đi sâu vào đặc trưng thi pháp hoặc những hình thức có khả năng tác
động của thơ ca.
Nhà nghiên cứu V. Skholovskij trong bài viết "Nghệ thuật như là thủ
pháp" cho rằng thủ pháp "lạ hóa" trong tác phẩm nghệ thuật giúp người ta “trở lại
cảm giác về cuộc sống, để cảm nhận được các sự vật, để làm cho hòn đá thành hòn
đá (...). Mục đích của nghệ thuật là đem lại cảm nhận về sự vật như đã nhìn thấy
mà không phải đã nhận biết nó; thủ pháp của nghệ thuật là thủ pháp biệt hóa các
sự vật và là thủ pháp tạo ra một hình thức khó hơn, làm cho sự cảm thụ trở nên khó
hơn và dài hơn, vì quá trình cảm thụ trong nghệ thuật mang mục đích tự thân và
phải kéo dài ra; nghệ thuật là sự cảm nhận cách làm ra sự vật, còn cái được làm ra
trong nghệ thuật thì không quan trọng” [151, tr.150]. Mặt khác, Skholovskij cũng tán
đồng ý kiến của Aristote yêu cầu ngôn ngữ thơ phải có tính chất xa lạ, gây kinh
ngạc và theo ông, một trong những yếu tố gây tác động đến người đọc là mặt ngữ
âm và nhịp điệu của thơ.
M.B. Khrapchenko trong bài "Sức sống vĩnh cửu những thuộc tính và chức
năng nội tại của tác phẩm văn học", sách "Những vấn đề lý luận và phương pháp
luận nghiên cứu văn học" đã quan tâm sâu sắc đến những biểu hiện nghệ thuật tạo
nên giá trị nghệ thuật và của một tác phẩm văn học: "nhà văn không đơn giản chỉ
làm cái việc truyền đạt những hiểu biết đời sống, những quan sát, những phát hiện
nghệ thuật của mình, anh ta còn hướng tới việc thể hiện những cái đó sao cho
chúng gây ấn tượng nhiều nhất đến công chúng độc giả" [68, tr.177].
Nhà phê bình văn học Đức M. Reich – Ranicki trong bài viết "Một lời biện
hộ cho thơ" đã đưa ra những lập luận khác nhau về việc có hay không hữu ích của
thơ đối với đời sống con người. Ông cũng cho rằng "thi ca có lúc có khả năng – cho
dù không thay đổi được ngay thế giới – song có thể làm cho thế giới đó trở nên dễ
chịu hơn (…), có thể lay động con người khỏi trạng thái thờ ơ, và thậm chí có thể
đánh bật nó khỏi những lối mòn tư duy cố hữu" [118, tr.72]. Bài viết của ông góp
phần khẳng định khả năng tác động của thơ ca, tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu các
hình thức tác động cụ thể.
Trong công trình "Hệ thống kết cấu lý luận "Thi ngôn chí", Cổ Phong đã
bàn đến 8 chức năng của thơ ca trong đó có chức năng giáo dục. Ông đã đồng tình
với ý kiến của Khổng Dĩnh Đạt, Dương Duy Trinh, Ba Nhật Hưu… khi nói về khả
năng giáo huấn con người của thơ và cho rằng "thơ nói chí, chí lại có khả năng cảm
hóa, giáo dục con người" [189, tr.36].
Lê Ngọc Trà trong "Lý luận và văn học" khẳng định: "Nghệ thuật trở
thành một phương tiện tác động quan trọng và có hiệu quả chính là nhờ những đặc
điểm vốn có của nó. Bản chất của nghệ thuật là tình cảm. Đánh vào tình cảm là tác
động vào khâu then chốt để lay chuyển con người", "trong quá trình tác động để cải
biến con người, tác phẩm nghệ thuật hiện ra không phải như người thầy, nhà thuyết
giáo mà như là người đồng hành, người đối thoại với bạn đọc, với khán giả", "nghệ
thuật ảnh hưởng đến con người lâu dài, dần dần và tác động theo kiểu lây lan" [157,
tr.109 - 111].
Bàn về các yếu tố thơ, trong quyển "Lý luận và văn học, vấn đề và suy
nghĩ", Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương cho rằng "nhịp, sự trở đi trở lại đều
đặn làm cho bài thơ tác động đến người đọc theo từng làn, từng đợt sóng, một cách
nhịp nhàng, liên tục, khiến con người như bị cuốn đi, rơi vào trạng thái đê mê. Nhịp
có tính "ru người", tạo chất "say" cho thơ" [40, tr.83]. Cũng trong tác phẩm này,
Huỳnh Như Phương quan tâm đến mối quan hệ giữa người đọc và tác phẩm, ông đã
bàn đến chức năng giao tiếp như một “sự tác động qua lại giữa người viết và người
đọc” [40, tr.140].
Trong "Thi pháp hiện đại", Đỗ Đức Hiểu cũng thừa nhận khả năng tác
động của thơ ca rất mạnh mẽ: "Nhà thơ càng tài năng, những làn sóng âm vang
càng nhiều, càng rộng, có khi không bờ bến, nó vang dội trong nhiều thế kỷ" [49,
tr.70].
Trần Đình Sử trong tiểu luận "Những thế giới nghệ thuật thơ" đã cho
rằng khả năng tác động như là một đặc điểm nổi bật của thơ cách mạng: "Thơ văn
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng có một sức tác động lớn
trong đời sống tinh thần người Việt Nam (…). Đặc điểm của thơ ca cách mạng là
gắn chặt với phong trào đấu tranh cách mạng, là vũ khí đấu tranh của phong trào
đó. Tính chiến đấu là đặc điểm nổi bật được các nhà thơ cách mạng ý thức rất rõ"
[122, tr.94]. Nhìn dọc theo chiều phát triển của tư duy nghệ thuật từ thơ cổ điển, lãng
mạn, tượng trưng, đến thơ cách mạng, Trần Đình Sử đã thấy rõ khả năng tác động là
một thành công lớn của thơ cách mạng. Tuy nhiên, ông cũng chỉ dừng lại ở những
nhận định đó chứ không đi vào nghiên cứu cụ thể hệ thống thi pháp có khả năng tác
động.
Đinh Gia Trinh trong "Hoài vọng của lý trí", khi bàn về trách nhiệm của
các văn sĩ và nghệ sĩ, đã khẳng định: "Sức cảm hóa của văn chương và của nghệ
thuật là một điều hiển nhiên. Những kẻ khinh sự truyền bá tư tưởng bằng văn
chương, coi những trang sách như một vang bóng vô ích chỉ là những kẻ xét đoán
hẹp hòi" [161, tr.52, 53]. Và khi đọc "Xuân thu nhã tập", ông cũng cho rằng: "Bởi
nhạc điệu, bởi sự hòa hợp âm thanh, bởi màu sắc của hình ảnh, tức khắc lời thơ đọc
lên "mê hoặc" ta, làm ta đắm say. Cốt thơ chính là có cái năng lực cảm hóa ấy, cái
năng lực làm người ta rung động… Thi sĩ là người khơi nguồn lưu thông cái run
rẩy huyền diệu của Thơ, mình cảm, mình rung động, rồi lựa lời, lựa âm thanh, điều
hòa màu sắc làm người ta cảm, người ta rung động, đem cái run rẩy huyền diệu
làm tràn sóng sang người đọc" [161, tr.201].
Công trình lý luận về thơ "Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện
đại" của Hà Minh Đức bàn đến nhiều vấn đề của thơ ca Việt Nam, trong đó, ông có
viết: "Thơ ca chân chính luôn là tiếng nói yêu thương, là lời ca chiến đấu, giàu ước
mơ và khát vọng", "nhà thơ không chỉ nhân danh mình để nói lên một điều gì, mà
chính là nhân danh xã hội, nhân danh đất nước, nhân danh giai cấp", "quan điểm
chính trị bộc lộ công khai và trực tiếp trong thơ tạo nên chất thép, chất chiến đấu
của thơ ca. Các nhà thơ với vị trí chiến đấu của người công dân giác ngộ lý tưởng
luôn có dụng ý lấy thơ ca làm vũ khí tuyên truyền trực tiếp những tư tưởng chính trị
nhằm động viên cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần chúng" [34, tr.103].
Và trong "Bình luận văn học", Như Phong cũng viết: "Văn nghệ không thể
tự coi là đã mãn nguyện, nếu nó chỉ làm cho người ta đứng ở ngoài cuộc mà phân
biệt đúng sai, mà còn phải lôi người ta vào trong cuộc đập tan cái lãnh đạm bàng
quan của họ, gọi dậy ở họ những sức mạnh vẫn ngủ yên, làm cho họ có thái độ tích
cực trước cái gì đáng yêu hoặc đáng ghét, gây cho họ ý thức và ý chí đấu tranh để
tiêu diệt cái gì hoặc bảo vệ cái gì. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ
cũng làm cho người đọc xong, ra khỏi tác phẩm ấy, không còn nguyên như trước
nữa, không thể sống yên với chính mình, vì đã yêu thương hay căm thù tột độ, cần
phải giải quyết vấn đề trên đời sống thật, cần phải hành động" [110, tr.244].
Trong quá trình tìm hiểu "Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam
(1945 – 1995)", Vũ Văn Sỹ đã khẳng định: "Về hình thức, văn học cách mạng vẫn
chủ yếu là thơ ca tuyên truyền, vận động và thơ ca tâm sự giác ngộ", "thơ không
còn là của riêng, đựng trong "túi", trong "bầu" mà là một thứ vũ khí kháng chiến, là
tài sản tinh thần chung của nhân dân. Sứ mệnh cao cả của thơ ca là phụng sự nhân
dân, phụng sự đất nước" [126, tr.43, 56]. Chuyên luận của ông tập trung nghiên cứu
những hình thức nghệ thuật đặc thù của thơ ca trong mối tương quan mật thiết giữa
sự vận động của xã hội và sự phát triển của thơ ca.
Mã Giang Lân trong khảo luận "Tìm hiểu thơ" có viết: "Chúng ta có tiếng
nói trữ tình quen thuộc kết hợp một cách nhuần nhị, tự nhiên với chất tự sự; khi cần
thiết vận dụng châm biếm, đả kích để đánh kẻ thù có hiệu quả hơn. Đến kháng
chiến chống Mỹ thơ có thêm tiếng nói chính luận đanh thép sắc sảo, có sức thuyết
phục, lay động mạnh tạo nên âm hưởng hùng tráng và vẻ đẹp sử thi" [80, tr.103, 104].
Tuyển tập phê bình tiểu luận "Tiếng vọng những mùa qua" của Nguyễn
Thị Thanh Xuân có bài viết về văn học kháng chiến ở Nam Bộ. Bàn về thơ ca giai
đoạn này, bà khẳng định: "Thơ ca chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn
học ở chiến khu Nam Bộ, cả về số lượng lẫn chất lượng". "Nội dung của thơ ca giai
đoạn này là ca ngợi cuộc kháng chiến, lên án sự tàn bạo của quân thù, biểu dương
những tấm gương anh hùng của nhân dân và kêu gọi những người đi theo giặc trở
về với chính nghĩa" [175, tr.225].
Lê Thành Nghị trong tác phẩm "Văn học sáng tạo và tiếp nhận" cho rằng
hiệu quả tác động của tác phẩm là tất yếu khi người cầm bút cố gắng và không bị
hạn chế trong việc "sử dụng những biện pháp hiệu quả nhất, kể cả các biện pháp
của các phương pháp sáng tác phi hiện thực như lãng mạn, viễn tưởng, huyền
thoại… miễn là tất cả sự vận dụng và tìm tòi nghệ thuật này nhằm đạt đến tính chân
thực thuyết phục của hình tượng văn học, đạt đến hiệu quả cao nhất trong việc tác
động vào tư tưởng và tình cảm người đọc" [101, tr.58].
Trong tiểu luận "Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy", Xuân
Diệu viết: "Có một cái gì rất lôi cuốn trong bộ phận thơ cách mạng viết theo nhạc
điệu thơ truyền thống; bây giờ chúng ta tuyên truyền, cổ động, hô hào, nhưng các
bài hịch của ông cha ta kêu gọi đánh giặc, kêu gọi đi theo, chính nghĩa, đã mở lối
văn, hơi văn chiến đấu ấy" [20, tr.55]. Trong cái nhìn này, Xuân Diệu nhận thấy rõ
thơ ca cách mạng "có rất nhiều bài cổ động: Em khuyên chị, chị khuyên em; cổ
động binh lính; cổ động học sinh, thanh niên; cổ động công nhân; cổ động dân cày;
cổ động dân nghèo làm cách mạng; hiệu triệu đồng bào đánh đuổi đế quốc Pháp;
kêu gọi quốc dân, và rất nhiều bài cổ động phụ nữ"…[20, tr.56].
Trúc Chi trong "Ba mươi năm một nền thơ cách mạng" cho rằng: "Thơ
đã trở thành sự sống cho xã hội một cách thực sự. Vũ khí của thơ là ở chỗ đó. Cách
mạng đã trả về cho thơ một nhiệm vụ nặng nề là góp phần xây dựng cuộc sống, xây
dựng con người, làm thức dậy những tình cảm cao thượng và chiến đấu cho một lẽ
sống công bằng đạo lý" [13, tr.130].
Trong giáo trình "Đại cương Mỹ học", Tạ Văn Thành cũng có cùng ý kiến
như trên: "Nghệ thuật tác động tổng hợp đến trí tuệ và trái tim, và không một ngõ
ngách nào của tâm hồn con người mà nghệ thuật lại không thâm nhập được", "bằng
cách giáo dục cho con người về nhiều mặt và tác động cả vào tình cảm lẫn lý trí
con người, cổ vũ họ đấu tranh cho những lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến, nền nghệ thuật
chân chính thực hiện một chức năng vô cùng quan trọng là chức năng cải tạo xã
hội" [140, tr.104, 105].
Đông La trong "Biên độ của trí tưởng tượng" cho rằng: "Thơ ca không
chỉ tạo nên sự xúc động, sự khoái cảm, sự tâm đắc mà còn gợi nên những suy tư,
những trăn trở, ý thức trách nhiệm lớn lao đối với đồng loại" [70, tr.98]. Nguyễn Thị
Dư Khánh với "Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong nhà trường"
có phần bàn về mục đích của môn Ngữ Văn, trong đó, theo bà, "thơ trữ tình là loại
tác động trực tiếp và sâu xa hơn cả" [63, tr.133].
Trong cuộc hội thảo về “Văn học và hiện thực”, “Phản ánh hiện thực là
chức năng hay thuộc tính của văn học?”, các nhà nghiên cứu lý luận cũng bày tỏ
mối quan tâm về khả năng tác động của tác phẩm. Từ quan điểm thông báo, Hoàng
Ngọc Hiến cho rằng “tác phẩm văn học phải truyền cho người đọc ham muốn cải
tạo hiện thực cuộc sống” [45, tr.6], còn Nguyễn Huệ Chi thì thừa nhận chính sự tự do
sáng tạo và tài năng nghệ thuật của tác giả đã tạo nên sự giao cảm kỳ diệu và “đánh
thức dậy trong người đọc một thế giới bí ẩn chưa từng biết trong hiện thực” [11,
tr.14].
Trong các công trình nghiên cứu, các giáo trình lý luận văn học, khả năng
tác động của thơ được nói đến từ góc nhìn về chức năng của văn học. Trần Đình Sử
trong "Lý luận và phê bình văn học" cho rằng: “Văn học vừa khơi gợi khoái cảm,
mở mang trí tuệ, dạy khôn con người, vừa thức tỉnh lương tri, lương tâm, dạy con
người biết yêu thương, căm giận…” [123, tr.216], giáo trình "Lý luận văn học" do
Phương Lựu chủ biên thì nhìn nhận “văn học có tác dụng khách quan là có thể tác
động vào đời sống tinh thần lý trí, tình cảm con người” [91, tập 1, tr.221] và khi nhìn
từ đặc điểm thể loại thơ, tác giả cũng khẳng định: “thơ trữ tình công dân có sức tác
động mạnh mẽ… khi nhà thơ lấy tư cách công dân cổ vũ và ca ngợi…, lên án và
đấu tranh…” [92, tr.364]. Các giáo trình Lý luận văn học trong phần trình bày chức
năng của văn học, thường xem chức năng tác động là một trong những chức năng
của văn học, dù đôi khi lồng nó vào chức năng giáo dục hoặc giao tiếp.
Các bức thư của ban chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam gửi
Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, III, IV đều có nhấn mạnh tác dụng của văn
học: “Mỗi tác phẩm văn nghệ phải có tác dụng rọi ánh sáng mới vào nhận thức, tư
tưởng, tình cảm của xã hội, cổ vũ nhân dân phấn khởi tiến lên” [4, tr.17]. Đó cũng là
mối quan tâm sâu sắc đến việc thơ văn phải phản ánh cái mới và đấu tranh cho cái
mới, quan tâm đến tác dụng giáo dục tư tưởng và truyền cảm sâu sắc của tác phẩm
nhằm góp phần thúc đẩy cuộc sống mới phát triển.
Từ góc nhìn của các nhà ngôn ngữ học:
Gần đây, việc nghiên cứu thơ ca từ góc độ ngôn ngữ được các nhà ngôn ngữ
học Việt Nam quan tâm. Đã có Mai Ngọc Chừ với "Tìm hiểu vần thơ Việt Nam"
(1986), Bùi Công Hùng với "Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca" (1989), Phan
Ngọc với "Tìm hiểu phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Du trong Truyện Kiều"
(1985), "Cách giải thích Văn học bằng ngôn ngữ học" (2000), Nguyễn Phan Cảnh
với "Ngôn ngữ thơ" (1987), Hữu Đạt với "Ngôn ngữ thơ Việt Nam" (1993), Triều
Nguyên với "Bình giải thơ từ góc độ cấu trúc ngôn ngữ" (2006)... Mỗi một người có
những đóng góp khác nhau vào cái nhìn tổng thể của ngôn ngữ học đối với thơ ca.
Qua đó, và qua các tác phẩm khác, vấn đề tác động của thơ cũng được nhìn nhận.
Trong "Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hóa", Hoàng Tuệ cho rằng vấn
đề phong cách trong văn chương thực chất là "một sự tạo nghĩa", nhưng cần nhấn
mạnh rằng đó là một sự tạo nghĩa đặc biệt, trong sự giao tiếp xã hội bằng nghệ
thuật, nhằm tạo nên một tác động đặc biệt" [164, tr.23].
Phan Ngọc thì nhìn thấy khả năng tác động như là một thuộc tính của thơ.
Trong quyển "Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ", ông viết: “Thơ là một
cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm
xúc và, phải suy nghĩ…” [102, tr.29]. Theo ông, sở dĩ, có những câu thơ được nhớ đến
hàng ngàn năm là nhờ cách tổ chức ngôn ngữ của nó.
Trong "Phong cách học Tiếng Việt", Đinh Trọng Lạc cho rằng “tính cụ
thể hóa nghệ thuật là thuộc tính rộng lớn nhất của lời nói nghệ thuật. Nó giải thích
bản chất sự tác động của từ ngữ nghệ thuật đến người đọc (...). Sự cụ thể hóa nghệ
thuật được thực hiện nhờ cách lựa chọn và tổ chức các phương tiện ngôn ngữ (...),
do đó, thơ đặc biệt sử dụng biện pháp trùng điệp ở các cấp độ để nhấn mạnh, để
xoáy sâu những ý tình, những hình tượng mà nhà thơ cho là quan trọng” [71, tr.154,
158].
Công trình "Ngữ pháp của thơ" của Nguyễn Thế Lịch đã nghiên cứu các
hình thức nghệ thuật như những đặc điểm ngữ pháp của thơ được các nhà thơ
thường xuyên sử dụng. Đó là con đường "từ ngữ liệu thơ ca rồi khái quát thành mô
hình của "ngữ pháp thơ" [84, tr.16]. Bài viết trình bày lần lượt các vấn đề về đơn vị
của ngữ pháp thơ, việc sử dụng các dấu câu, hiện tượng tỉnh lược thành phần, dùng
cấu trúc đối, đảo, điệp, sử dụng hạn chế các hư từ, cấu trúc dòng thơ và bài thơ, các
kiểu câu cảm thán, câu hỏi tu từ, sự kết hợp bất thường, sự đổi mới cấu trúc câu
thơ… Ông thừa nhận trùng điệp là một dạng thức tác động hiệu quả vào tình cảm
của người đọc: “hai tiếng “khi mô” (trong bài "Tiếng hát sông Hương") được nhắc
lại mấy lần để xoáy sâu vào lòng người đọc nỗi day dứt, lòng mong mỏi ngày được
giải thoát khỏi cuộc đời ô nhục của cô gái trên sông Hương” [84, tr.59]. Tuy nhiên,
công trình này không đi sâu sát vào các đặc trưng ngữ pháp có xu hướng tác động.
Trong "Phong cách học và phong cách chức năng Tiếng Việt", Hữu Đạt
cho rằng "Các đơn vị ngôn ngữ hoạt động trong phong cách nghệ thuật với chức
năng nổi bật nhất là chức năng tác động bằng hình tượng (…). Tác động của nghệ
thuật trước hết là tác động tình cảm và thẩm mỹ, (…), chức năng tác động tình cảm
lại là yếu tố nổi bật lên trước nhất" [29, tr.285 - 287]. Ông cũng chỉ ra rằng việc sử
dụng thường xuyên các lời than gọi, các câu hỏi tu từ nghệ thuật, nhiều từ láy, từ
tượng hình, là một trong những điểm tạo nên dấu hiệu khác b