Luận văn Đánh giá khả năng nảy mầm và phát triển của dầu song nàng (dipterocarpus dyeri pierre) thuộc họ dầu (dipterocarpaceae blume) trong vườn ươm tại vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát tỉnh Tây Ninh

Tây Ninh là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng chuyển tiếp giữa đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh phía Bắc miền Đông Nam Bộ và vùng Tây Nguyên; là tỉnh có đường biên giới phía Tây Nam tiếp giáp Campuchia. Phía Bắc và phía Tây giáp tỉnh CôngPôngChàm và SVâyRiêng – Campuchia; phía Nam giáp tỉnh Long An; phía Đông giáp tỉnh Bình Dương, Bình Phước; phía Đông Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh.

pdf100 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1584 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá khả năng nảy mầm và phát triển của dầu song nàng (dipterocarpus dyeri pierre) thuộc họ dầu (dipterocarpaceae blume) trong vườn ươm tại vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát tỉnh Tây Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Hà Linh ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG NẢY MẦM VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DẦU SONG NÀNG (DIPTEROCARPUS DYERI PIERRE) THUỘC HỌ DẦU (DIPTEROCARPACEAE BLUME) TRONG VƯỜN ƯƠM TẠI VƯỜN QUỐC GIA LÒ GÒ - XA MÁT TỈNH TÂY NINH Chuyên nghành: Sinh Thái Học Mã số: 60 42 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN HỢP Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết quả được trình bày trong luận văn là chính xác và trung thực; chưa từng được công bố trong các luận văn khác. NGUYỄN THỊ HÀ LINH LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành theo chương trình đào tạo Thạc sĩ, hệ chính qui niên khóa 2006 - 2009 của trường Đại Học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Trong suốt quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi của Ban Giám Hiệu và Phòng Khoa Học Công Nghệ - Sau Đại Học TP. Hồ Chí Minh; các giảng viên và nhân viên bộ môn Thực Vật trường Đại học Y Duợc TP. Hồ Chí Minh; Ban Giám Hiệu và các đồng nghiệp trường THPT Lý Thường Kiệt; Ban Giám Đốc và các anh chị, các bạn phòng Kỹ Thuật Vườn Quốc Gia Lò Gò - Xa Mát. Tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc trước những sự quan tâm và giúp đỡ quý báu đó. Để có được kết quả trên là nhờ sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của giảng viên PGS. TS Trần Hợp. Nhân dịp này, tôi bày tỏ lòng biết ơn và sự kính trọng nhất đối với thầy. Tôi còn nhận được sự giúp đỡ và động viên tinh thần của cha mẹ, anh chị em trong gia đình, cùng các bạn học cùng khóa. Tôi thành thật cảm ơn và ghi nhớ tất cả sự giúp đỡ chân thành đó. Tây Ninh, ngày 30 tháng 10 năm 2009 Nguyễn Thị Hà Linh DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. D DSN: Dầu Song nàng D: đường kính D tb: đường kính trung bình D gốc: đường kính gốc D1,3: đường kính 1,3 m 2. Đ ĐCP: độ che phủ ĐTC: độ tàn che 3. H H: chiều cao Hvn: chiều cao vút ngọn Htb: chiều cao trung bình Hbụi: chiều cao cây bụi 4. T TS: tái sinh TSTN: tái sinh tự nhiên 5. V VQG: Vườn Quốc Gia VQG LGXM: Vườn Quốc Gia Lò Gò - Xa Mát CHƯƠNG 1 MỞ ĐẦU 1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tây Ninh là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng chuyển tiếp giữa đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh phía Bắc miền Đông Nam Bộ và vùng Tây Nguyên; là tỉnh có đường biên giới phía Tây Nam tiếp giáp Campuchia. Phía Bắc và phía Tây giáp tỉnh CôngPôngChàm và SVâyRiêng – Campuchia; phía Nam giáp tỉnh Long An; phía Đông giáp tỉnh Bình Dương, Bình Phước; phía Đông Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh. Là một tỉnh biên giới, nên rừng ở Tây Ninh có vị trí vô cùng quan trọng, ngoài chức năng cung cấp gỗ, phòng vệ đầu nguồn, phòng hộ biên giới còn có giá trị rất lớn về cảnh quan môi trường, di tích lịch sử, văn hoá. Tổng diện tích rừng đặc dụng của tỉnh vào năm 2005 là 32.281 ha (chiếm 45,7% diện tích đất lâm nghiệp), bao gồm diện tích của Vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát (18.806 ha), khu rừng văn hoá lịch sử Chàng Riệc (11.438 ha), rừng lịch sử Núi Bà và Giống Lâm nghiệp (1.855 ha), Căn cứ Đồng Rùm (32 ha), Căn cứ huyện ủy Châu Thành (150 ha). Trong các khu rừng đặc dụng trên, thì Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát có ý nghĩa về mặt môi trường như điều tiết nguồn nước trong mùa mưa và mùa khô, về kinh tế là nơi cung cấp nguồn thực phẩm cho cộng đồng địa phương và là nơi có tiềm năng lớn về du lịch sinh thái. Rừng Lò Gò – Xa Mát vừa có các kiểu rừng lá rộng thường xanh, rừng nửa rụng lá, rừng khộp vừa có những trảng cỏ ngập nước theo mùa với những loài động thực vật đặc trưng có tính đa dạng sinh học cao. Trong các khu rừng còn tồn tại một vài khoảnh rừng thuần loại cây họ Dầu như Dầu Song nàng còn gọi là Dầu sang nàng Dipterocarpus dyeri Pierre, Dầu cát Dipterocarpus costatus Gaertn, Dầu lông Dipterocarpus intricatus Dyer, Dầu trà beng Dipterocarpus obtusifoliu Teijsmann ex Miquel. Hiện nay, tại các khu đất không có rừng, đất sản xuất nông nghiệp trên phân khu phục hồi sinh thái biên giới đang được chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất lâm nghiệp; tại các khu đất này Ban quản lý Vườn Quốc Gia Lò Gò - Xa Mát cho tiến hành trồng các loại cây như Vên vên Anisoptera cochinchinensis Pierre, Sao đen Hopea odorata Roxburgh, Dầu rái Dipterocarpus alatus Roxb ex G.Don, Keo bông vàng Acacia auriculiformis A.Cunn. ex Benth.; Keo Tai tượng Acacia mangium Willd. Số loài được sử dụng trồng tái sinh rừng chưa đa dạng về chủng loại, cây họ Dầu chỉ có hai loài là Sao đen và Dầu rái, một số cây có xuất xứ ngoại lai như Keo bông vàng, Keo tai tượng. Công tác chọn giống cây trồng rừng mới chưa được đầu tư đúng mức, việc sử dụng các giống cây ở tại Vườn quốc gia để gieo trồng còn hạn chế. Do đó, trong việc quản lý, bảo vệ và phục hồi rừng đòi hỏi cần nghiên cứu điều kiện sống, đặc điểm một số loài cây để sử dụng cho việc gieo ươm và trồng tại các khu đất trống ởVườn quốc gia. Trong đó các khoảnh rừng thuần loại có thể được sử dụng để trồng trong khu rừng phục hồi, trong các cây họ Dầu thì cây Dầu Song nàng Dipterocarpus dyeri Pierre thuộc họ Dầu Dipterocarpaceae là loài cây cần có sự quan tâm và đầu tư đúng mức vì: - Cây Dầu Song nàng Dipterocarpus dyeri Pierre hình thành rừng có trữ lượng cao. Gỗ cây Dầu Song nàng Dipterocarpus dyeri Pierre được xếp vào cấp IV có nhiều đặc tính cơ lí tốt, lõi cứng và nặng có giá trị lớn trong xây dựng, trong sử dụng thông thường gỗ không cần bảo quản bằng thuốc chống mối. Ngoài ra gỗ còn được sử dụng phổ biến để sản xuất hàng xuất khẩu. Nhựa cây được dùng trong làm thuyền. - Trong Sách đỏ Việt Nam phần II [3], cây Dầu Song nàng Dipterocarpus dyeri Pierre được xếp vào loại sẽ nguy cấp; nơi cư trú của cây đang bị tàn phá và thu hẹp, cây bị khai thác mạnh và có xu hướng bị tiêu diệt ở từng vùng lớn. - Chưa có công trình nào nghiên cứu về sự tái sinh tự nhiên cũng như việc phát triển của cây Dầu Song nàng Dipterocarpus dyeri Pierre trong vườn ươm tại Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát để có thể làm cơ sở cho việc bảo vệ và phát triển giống cây này tại vườn. Với những lý do trên cùng với những hiểu biết về cây Dầu Song nàng, chúng tôi chọn đề tài: “ Đánh giá khả năng nảy mầm và phát triển của Dầu Song nàng ( Dipterocarpus dyeri Pierre) thuộc họ Dầu ( Dipterocarpaceae Blume) trong vườn ươm tại Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát - tỉnh Tây Ninh” để nghiên cứu sâu hơn về khả năng tái sinh ngoài tự nhiên cũng như khả năng phát triển trong điều kiện gieo ươm. Từ đó giải quyết các vấn đề phục hồi rừng và góp phần bảo vệ hệ sinh thái và duy trì đa dạng sinh học tại Vườn quốc gia. 1.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Đối tượng nghiên cứu: Cây Dầu Song nàng Dipterocarpus dyeri Pierre tái sinh tự nhiên ở Vườn Quốc Gia Lò Gò – Xa Mát – tỉnh Tây Ninh và được nhân giống trong vườm ươm. - Phạm vi nghiên cứu: Với khoảng thời gian một năm, chúng tôi chỉ có thể tập trung nghiên cứu các vấn đề sau: + Nghiên cứu hoàn cảnh sống và phân bố của cây Dầu Song nàng trong Vườn Quốc Gia Lò Gò - Xa Mát tỉnh Tây Ninh. + Phân tích hóa lí đất mặt tại nơi có cây Dầu Song nàng phân bố để biết hàm lượng các chất dinh dưỡng cần cho sự sinh trưởng và phát triển của cây ngoài tự nhiên; từ đó chọn các vùng đất trống phù hợp để trồng tái sinh rừng. + Nghiên cứu khả năng tái sinh ngoài tự nhiên của cây Dầu Song nàng để đóng góp dữ liệu cho việc xây dựng các kỹ thuật bảo vệ rừng và xử lý lâm sinh trong các hoạt động lâm sinh. + Nghiên cứu hình thái, giải phẫu các bộ phận cơ quan của cây Dầu Song nàng để thấy rõ các đặc điểm giải phẫu hình thái thực vật của cây. + Phân tích hình thái so sánh và tra cứu theo các khóa tra để định danh tên khoa học của loài. + Nghiên cứu hạt giống, nảy mầm và các giai đoạn sinh trưởng – phát triển của cây Dầu Song nàng trong vườm ươm với các điều kiện ánh sáng khác nhau để chọn ra công thức ươm gieo tốt nhất làm chuẩn, phục vụ cho công tác trồng rừng ở địa phương. 1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU - Xác định tên khoa học của cây Dầu Song nàng và vị trí phân loại trong hệ thống sinh tiến hóa. - Mô tả các đặc điểm hình thái, minh họa bằng hình ảnh các bộ phận của cây như thân, lá, hoa, quả... - Thu mẫu, làm tiêu bản cây Dầu Song nàng để mô tả các đặc điểm giải phẫu các bộ phận thân, lá, rễ của cây Dầu Song nàng và minh họa bằng hình chụp vi phẫu các bộ phận. - Xác định khả năng tái sinh của Dầu Song nàng trong tự nhiên và các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tái sinh của cây con. - Thực nghiệm để xác định được các điều kiện thích hợp cho cây con phát triển ở giai đoạn vườm ươm. Từ đó tìm ra phương thức ươm gieo tốt nhất. 1.4. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Cung cấp tư liệu khoa học về cây Dầu Song nàng Dipterocarpus dyeri để phục vụ cho việc trồng và khôi phục rừng. Tìm hiểu khả năng tái sinh ngoài tự nhiên và ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái để có các biện pháp lâm sinh phù hợp, xác định độ che phủ ánh sáng thích hợp trong vườm ươm làm cơ sở cho việc ươm và trồng cây sau này. 1.5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Chương 1: Mở đầu. Chương 2: Tổng quan tài liệu Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. Chương 4: Kết quả và thảo luận. Chương 5: Kết luận và kiến nghị CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2. 1. Điều kiện tự nhiên của Vườn Quốc Gia Lò Gò - Xa Mát - tỉnh Tây Ninh Theo các tài liệu [4, tr.3-12], [5], [8], [26], [36], [41], [45] điều kiện tự nhiên của Vườn Quốc Gia Lò Gò - Xa Mát có các đặc điểm sau: 2.1.1. Vị trí địa lý Vườn Quốc gia Lò Gò-Xa Mát nằm trên địa bàn ba xã Tân Lập, Tân Bình, Hòa Hiệp của huyện Tân Biên, cách thị xã Tây Ninh 30 km về phía Tây Bắc. Ranh giới hành chính: - Phía Bắc giáp ranh giới Việt Nam – Campuchia. - Phía Tây giáp sông Vàm Cỏ Đông ( biên giới Việt Nam - Campuchia). - Phía Đông giáp đường ranh lâm - nông xã Tân Lập - Tân Bình . - Phía Nam giáp đường ranh lâm - nông xã Hòa Hiệp. VQG Lò Gò - Xa Mát Bản đồ tài nguyên rừng ở tỉnh Tây Ninh Tọa độ địa lý: - Từ 105o 48’ 2.27 đến 105o 58’ 20.47 kinh độ đông - Từ 11o 30’ 4.97 đến 11o 40’ 38.96 vĩ độ Bắc Tổng diện tích của VQG LGXM, kể cả vùng đệm là 18.806 ha. 2.1.2. Địa hình, địa mạo Khu vực VQG LGXM và vùng lân cận nằm trên địa hình cao 5 - 20m trên thềm phù sa cổ của hệ thống sông Vàm Cỏ Đông. Địa hình có hướng dốc nhỏ xuôi theo hướng Bắc Nam và Tây Nam, ở phần phía Nam mức độ phân cắt địa hình tăng lên bởi các thung lũng bào mòn và thung lũng sông. Rải rác trong VQG có những gò cao với độ cao không vượt quá 25m so với mực nước biển, cao độ trung bình 13m. Cả vùng có độ dốc trung bình 1o - 5o do vậy VQG có địa hình gần như bằng phẳng như là kiểu của bậc thềm sông Vàm Cỏ Đông. Có thể phân chia địa hình cho khu vực LGXM thành các kiểu phụ tiểu địa hình là bằng phẳng, trũng và gò hình thành các trảng và bàu ngập nước trong mùa mưa. Nhìn chung VQG LGXM nằm trên thềm sông cổ, có hoạt động nội sinh ổn định nên địa hình địa mạo cũng đơn giản không có nhiều thay đổi phức tạp. 2.1.3. Địa chất, thổ nhưỡng Tại VQG LGXM, các thành tạo trầm tích mới nhất chỉ có thành tạo tuổi Holocene, gồm các trầm tích sông, sông đầm lầy và trầm tích sông biển. Đánh giá chung: khu vực VQG có nguồn gốc địa chất đơn giản, nền địa chất tại khu vực VQG LGXM có thuộc trầm tích đệ tứ có tuổi Pleistocene thuộc hệ tầng Mộc Hóa và Holocene thuộc Holocene thượng và hạ, trầm tích sông và đầm lầy. Các hoạt động kiến tạo tại khu vực này đã diễn ra từ thời cổ xưa và đã ổn định. Các đứt gãy địa chất có thể xác định trong khu vực VQG tương ứng là đứt gãy Vàm Cỏ Đông, Xa Mát – sông Sài Gòn. Các thành tạo địa chất thuộc trầm tích Đệ Tứ trong khu vực LGXM như sau (từ tuổi cổ đến trẻ): - Trầm tích Pleistocene thượng, tầng trên: trầm tích sông với các thành phần sỏi, cát, bột, sét chiếm phần lớn diện tích của VQG. - Trầm tích Holocene hạ - trung: thuộc trầm tích sông với các thành phần cuội sỏi, cát, bột sét. Phân bố chủ yếu dọc luu vực sông Vàm Cỏ. - Trầm tích Holocene thượng phần dưới: thuộc trầm tích sông - đầm lầy, thành phần vật liệu bột, sét, di tích thực vật, than bùn. Phân bố tại tại các địa hình thấp trũng hoặc các trũng đầm lầy hóa có độ cao địa hình tại chỗ chênh lêch 0,5 - 1m. Với thành phần chủ yếu là bùn nhão mềm bở, sét chiếm ưu thế - Trầm tích Holocene thượng phần trên: thành phần cát sét, bột sét, dii tích thực vật ở khu vực thuộc trầm tích sông. Phân bố dọc lưu vực các suối nhỏ như Đa Ha. Nhóm đất phổ biến trong VQG LGXM là đất xám phù sa cổ cũng là loại đất chiếm ưu thế của huyện Tân Biên. Các loại đất chính như sau: - Đất xám điển hình: phát triển trên thềm phù sa cổ, chiếm 68,5% diện tích VQG. Đất có thành phần cơ giới cát pha đến thịt nhẹ, cấp hạt cát chiếm gần 50% cho cả các tầng từ bề mặt cho đến độ sâu 60cm, khả năng giữ nước kém. Tầng đất dày (>100cm), đất chua và có hàm lượng mùn thấp. Phân bố trên dạng địa hình khá cao, phần lớn diện tích trên loại đất này còn rừng che phủ nên khả năng thoái hóa chưa trầm trọng. - Đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng, chiếm khoảng 20% diện tích. Đất phát triển trên phù sa cổ, vùng địa hình trung bình, trên các dạng đồi thấp, bát úp. Phân bố dọc các suối Đa Ha, Mẹt Nu, Sa Nghe…Đất có thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ. Tầng đất sâu (>100cm), hơi chua pH = 4,0 – 4,5. - Đất phù sa có tầng laterit hình thành do mực nước ngầm dao động lớn giữa hai mùa khô và mưa tạo điều kiện kết von và những khu vực có độ che phủ thấp hoặc không có thực vật che phủ, các khối laterit kết cứng lộ ra trên bề mặt. - Đất xám đọng mùn tầng mặt chiếm 7,7% chủ yếu phân bố ở các trảng ngập nước mùa mưa như trảng Tân Thanh, Tân Nam, Bà Điếc… Đất có thành phần cơ giới thịt trung bình, càng xuống sâu thịt càng nặng. Đất chua, nghèo dinh dưỡng, lượng mùn trên bề mặt tăng cao so với các loại đất trên. Ngoài ra, còn một số diện tích nhỏ đất xám có tầng kết von đá ong, phân bố thành dãy hẹp ven suối Đa Ha, Sa Nghe và Sa Mát. 2.1.4. Khí hậu Khí hậu toàn vùng mang tính chất nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, chịu tác động của hai nhân tố chính là gió mùa Tây Nam, gió mùa Đông Bắc và dải hội tụ nhiệt đới. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 và kết thúc sớm, mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. - Nhiệt độ: ổn định trong khoảng 25-27oC, nhiệt độ trung bình năm xấp xỉ 27,7oC và biên độ nhiệt giữa các tháng không cao. Nhiệt độ cao nhất 39,9oC ( tháng 4), nhiệt độ thấp nhất 15,3oC (tháng 1 và tháng 2), tổng tích nhiệt hàng năm vào khoảng 9.800-10.100 kcal. - Nắng: số giờ nắng trung bình tháng khoảng 245 giờ. Trong mùa khô số giờ nắng lớn hơn trong mùa mưa và giảm dần từ tháng 12, tháng 1 và đạt cao nhất vào tháng 3 ( 279 giờ). Số giờ nắng mùa mưa nhỏ giảm dần từ tháng 5, tháng 6 và nhỏ nhất vào tháng 4, tháng 5 (174 giờ). - Gió: trong năm có hai hướng gió chính, gió mùa Tây Nam vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 với tốc độ bình quân 1,8 m/s, gió mùa Đông Bắc vào mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau với tốc độ bình quân 2,3 m/s. - Lượng mưa: lượng mưa trung bình năm là 1800 mm phân bố không đồng đều giữa các tháng, thường tập trung từ tháng 5 đến tháng 11, tập trung nhiều nhất vào các tháng 8, 9 và 10 trung bình từ 250 - 300 mm chiếm khoảng 40% lượng mưa năm. Số ngày mưa trong khoảng 150 - 160 ngày/năm. - Lượng bốc hơi: lượng bốc hơi bình quân mỗi năm là 1.489 mm, tuy nhiên lượng bốc hơi thay đổi rõ rệt theo mùa. Trong mùa mưa lượng bốc hơi thường thấp hơn lượng mưa, trong các tháng mùa khô thì lượng bốc hơi tăng cao hơn lượng mưa. Số tháng có lượng bốc hơi nước trên 100 mm kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. - Độ ẩm không khí: độ ẩm trung bình hàng năm 78,4%; trong năm độ ẩm trung bình lớn nhất thường xuất hiện vào tháng 9 và tháng 10, nhỏ nhất vào tháng 3 và tháng 4. Nhìn chung khí hậu ở VQG LGXM mang tính chất nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nằm trong vùng vĩ độ thấp của nội chí tuyến Bắc, điều kiện bức xạ mặt trời quanh năm dồi dào, ít chịu ảnh hưởng của không khí lạnh phía Bắc mà chủ yếu bị chi phối của các khối không khí nóng ẩm phía Đông và Nam. Khu vực ít chịu ảnh hưởng của bão nhưng tốc độ gió mạnh vẫn thường xuất hiện gần như bão và hầu như năm nào cũng xảy ra. 2.1.5. Thủy văn Mật độ sông suối trong VQG LGXM là 0,19 km/km2, hệ thống sông suối chảy qua VQG có sông Vàm Cỏ Đông, suối Đa Ha, và các suối khác chỉ có nước vào mùa mưa. - Sông Vàm Cỏ Đông: xuất phát từ Campuchia chảy qua phía Tây khu rừng và là ranh giới quốc gia Việt Nam - Campuchia. Đoạn chảy qua khu rừng dài khoảng 20 km, lòng sông rộng 10 - 20 m có nơi mở rộng đến 50m, chảy uốn lượn và cắt vào thềm phù sa cổ. Sông có nước ngọt quanh năm nhưng không thuận tiện cho giao thông. Thượng lưu sông mang tính chất chế độ thủy văn miền núi. Mùa khô các sông suối cạn kiệt, dòng chảy rất nhỏ. Mùa lũ mực nước và lưu lượng lên nhanh khi có mưa, xuống nhanh khi hết mưa. Sau mưa lũ mực nước giảm dần và xuống thấp nhất vào tháng 4, tháng 5. - Suối Đa Ha: xuất phát nguồn từ Campuchia chảy qua phía Đông Bắc theo hướng Tây Nam chảy vào khu trung tâm rồi hợp với suối Mẹc Nu, Sa Nghe, Tà Nốt thành suối Sa Mát chảy ra sông Vàm Cỏ Đông. Suối có nước quanh năm, lòng suối nhỏ chảy ngoằn nghèo. Ngoài ra còn có một số suối nhỏ nằm trong khu rừng như suối Mẹc Nu ( xuất phát từ trảng Tân Thanh, trảng Min Thui chảy vào suối Đa Ha, suối chỉ có nước vào mùa mưa), suối Sa Nghe ( xuất phát từ bàu Quang, chảy về suối Đa Ha); suối Tà Nốt, suối Thị Hằng đều khô nước vào mùa khô. Nước ngầm trong khu vực khá phong phú và gần mặt đất, ở độ sâu 4 - 5 m ở các khu vực gần sông suối có thể cung cấp nước sinh hoạt, và ở độ sâu > 20 m cho nước phục vụ sản xuất ( 140 - 240 m3/ ngày). Tầng nước nông thuộc trầm tích phù sa mới có chất lượng không ổn định và bị chua do tích tụ sắt trong tầng đất trầm tích. 2.1.6. Tài nguyên động thực vật 2.1.6.1. Tài nguyên thực vật Hệ thực vật của rừng LGXM đã biết cho đến nay khoảng 694 loài thuộc về 5 ngành thực vật, 60 bộ, 115 họ và 395 chi.[41], [45] Bảng 2.1. Thành phần hệ thực vật tại VQG LGXM Ngành Số bộ Họ Chi Loài Ngành rêu /Bryophyta 1 1 1 1 Ngành Thông đá / Lycopodiophyta 2 2 2 2 Ngành Dương Xỉ / Polypodiophyta 6 6 11 13 Ngành Hạt trần / Pinophyta 1 1 1 2 Ngành Ngọc Lan / Magnoliophyta 50 105 380 676 Tổng 60 115 395 694 Tại VQG LGXM có các kiểu thảm thực vật chính như sau: - Kiểu rừng nguyên sinh và thứ sinh thường xanh cây lá rộng theo mùa: trong đó tầng cao nhất gồm các loài như Cầy Irvingia malayana (Irvingiaceae) , Trám Canarium sp. (Burseraceae), các loài Đa sung Ficus spp. (Moraceae), các loài cây Dầu Dipterocarpus sp. (Dipterocarpaceae). Tầng thấp hơn gồm các loài như Cơm nguội Ardisia sp. (Myrsinaceae), Hymenocardia punctata (Euphorbiaceae), Bằng lăng Lagerstroemia sp., (Lythraceae), Sầm Memecylon sp. (Melastomataceae), Bưởi bung Acronychia pedunculata (Rutaceae). Tầng thảm cỏ bao gồm các loài Ráng dương xỉ Pteris grevilleana, Pteris sp., Tectaria sp. (Polypodiaceae s.l.), Helminthostachys zeylanica …Phần lớn trong kiểu rừng này có sự hiện diện của nhóm dây leo thân thảo và thân gỗ. - Kiểu rừng sao dầu thứ sinh trên đất ngập nước theo mùa trên đất ferralit nông/cạn: loài Dầu Trà beng Dipterocarpus obtusifolius Teijsm ex Miq. chiếm ưu thế trong cả kiểu rừng này. Các loài cây bụi hay cỏ thường gặp trong rừng ưu thế họ Sao dầu là các loài cây trong họ Trúc đào (Apocynaceae), tầng thảm cỏ bao gồm các loài lau sậy như Cói ( Cyperus spp., Fimbristylis spp., Kyllinga spp.), kể cả loài thường gặp như Amorphophallus sp. (Araceae); Costus speciosus, (Costaceae); Crotalaria calycina, Sesbania sp., Tephrosia sp. (Fabaceae)... - Kiểu rừng khô thưa thứ sinh ngập nước theo mùa trên đất ngập nước ưu thế họ Sao Dầu, tràm và trảng ngập nước theo mùa thứ sinh ưu thế Tràm và Randia: loài Dầu Trà beng Dipterocarpus obtusifolius chiếm ưu thế hình thành một tầng tán rừng thưa rải rác vài cây bụi đặc trưng. Tron