Hiện nay, chất lượng đang được quan tâm nhiều trên thếgiới. Mọi người
bàn luận vềchất lượng trong mọi lĩnh vực của xã hội: trong các ngành công
nghiệp, quản trịkinh doanh, dịch vụ.và trong lĩnh vực giáo dục. Chất lượng
luôn là vấn đềquan trọng trong giáo dục đào tạo nói chung và trong các
trường đại học nói riêng. Việc nâng cao chất lượng đào tạo là nhiệm vụquan
trọng nhất của bất kỳcơsở đào tạo đại học nào, là điều kiện tiên quyết cho sự
tồn tại và phát triển của các đơn vị đào tạo.
Bên cạnh đó, xu thếtoàn cầu hóa đang ngày càng phát triển cảvềchiều
rộng lẫn chiều sâu và xu thếtoàn cầu hóa giáo dục đại học cũng không nằm
ngoài qui luật đó. Toàn cầu hóa giáo dục đại học là đặc điểm nổi bật của tiến
trình phát triển giáo dục đại học thếkỉXXI. Tất cảcác nền đại học không
phân biệt là nền đại học của nước phát triển đang phát triển đều nằm trong xu
thếquốc tếhóa và toàn cầu hóa. Sởdĩcó hiện tượng nhưvậy là do giáo dục
đang trởthành một ngành dịch vụ, dịch vụgiáo dục ngày càng lành mạnh và
gia tăng theo chiều hướng thu hút của các nước giàu đối với các nước nghèo,
của các nước phát triển đối với các nước đang phát triển. Trước bối cảnh trên
cần xây dựng một nền dịch vụgiáo dục đại học Việt Nam bản lĩnh, truyền
thống chủ động hội nhập với khu vực và thếgiới.
Khi giáo dục đại học là một loại hình dịch vụ điều này đồng nghĩa các cơ
sởgiáo dục đại học là đơn vịcung cấp dịch vụ. Đối tượng khách hàng chủ
yếu của các cơsởgiáo dục đại học là người học, cụthể ở đây chính là sinh
viên. Có thểnói sinh viên đóng nhiều vai trò trong dịch vụ đào tạo đại học,
đây là khách hàng quan trọng vì tham gia trực tiếp vào toàn bộquá trình dịch
vụvà cũng là sản phẩm của giáo dục đào tạo.
1
Trong những năm gần đây, hệthống giáo dục đại học nước ta không
ngừng phát triển cảvềqui mô và chất lượng. Trong hệthống đại học công lập
có: Đại học quốc gia, đại học vùng, trường đại học trọng điểm, đại học đa
ngành, chuyên ngành, đại học mở, đại học cộng đồng. Trong mạng lưới đại
học ngoài công lập có đại học bán công và dân lập. Nhiều trường đại học
đang được hiện đại hóa từcơsởvật chất kĩthuật đến đội ngũcán bộ, giáo
viên, nội dung chương trình đào tạo,v.v. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách
khách quan, giáo dục đại học nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo và việc nâng cao chất lượng
đào tạo.
Thách thức gay gắt nhất đối với giáo dục hiện nay là giữa yêu cầu phát
triển quy mô và các điều kiện đảm bảo chất lượng. Thực tếcho thấy, do điều
kiện kinh tếcòn khó khăn, ngân sách hàng năm đầu tưcho giáo dục nói chung
và giáo dục đại học nói riêng còn thấp; không đủtrang trải cho những yêu cầu
tối cần thiết vềcác điều kiện đảm bảo như: trường sở, thưviện, phòng thí
nghiệm, nhà xưởng thực hành. Bên cạnh đó, yêu cầu nhanh chóng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, hội nhập giáo dục nước ta với các nước trong khu vực và
trên thếgiới cũng nhưviệc đổi mới chương trình nội dung, chương trình,
phương pháp giảng dạy đang đòi hỏi có những nỗlực và quyết tâm cao.
Trong quản lý chất lượng hiện đại, triết lý hướng đến khách hàng đang
đóng vai trò chủ đạo. Một trong những yếu tốquyết định cho sựtồn tại và
phát triển của các đơn vịkinh doanh nói chung và các đơn vịtrong lĩnh vực
giáo dục nói riêng là sựhài lòng của khách hàng vềchất lượng dịch vụ- sản
phẩm mà đơn vịcung ứng. Chất lượng phải được đánh giá bởi chính những
khách hàng đang sửdụng chứkhông phải bởi các đơn vị. Nhưvậy, trong lĩnh
vực giáo dục việc đánh giá chất lượng dịch vụqua ý kiến của khách hàng,
trong đó khách hàng trọng tâm - người học (sinh viên) đang trởlên hết sức
2
cần thiết. Qua đó, các đơn vị đào tạo nói chung và các trường đại học nói
riêng có các nhìn nhận khách quan vềnhững gì mình đã cung cấp, những gì
mình kỳvọng thay vì chỉquan tâm đến đầu tưcơsởvật chất, trình độ đầu vào
- đầu ra và kết quảhọc tập của sinh viên và các yếu tốkhác trong quá trình
đào tạo.
Xuất phát từnhững cơsởlý luận và thực tiễn của chất lượng giáo dục
nói chung và chất lượng đào tạo nói riêng, tôi lựa chọn đềtài: “Đánh giá sự
hài lòng của sinh viên vềchất lượng đào tạo tại Trường Đại học Kinh tếvà
Quản trịkinh doanh – Đại học Thái Nguyên”
78 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 3465 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo tại Trường Đại học Kinh tếvà Quản trị kinh doanh – Đại học Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, chất lượng đang được quan tâm nhiều trên thế giới. Mọi người
bàn luận về chất lượng trong mọi lĩnh vực của xã hội: trong các ngành công
nghiệp, quản trị kinh doanh, dịch vụ...và trong lĩnh vực giáo dục. Chất lượng
luôn là vấn đề quan trọng trong giáo dục đào tạo nói chung và trong các
trường đại học nói riêng. Việc nâng cao chất lượng đào tạo là nhiệm vụ quan
trọng nhất của bất kỳ cơ sở đào tạo đại học nào, là điều kiện tiên quyết cho sự
tồn tại và phát triển của các đơn vị đào tạo.
Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hóa đang ngày càng phát triển cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu và xu thế toàn cầu hóa giáo dục đại học cũng không nằm
ngoài qui luật đó. Toàn cầu hóa giáo dục đại học là đặc điểm nổi bật của tiến
trình phát triển giáo dục đại học thế kỉ XXI. Tất cả các nền đại học không
phân biệt là nền đại học của nước phát triển đang phát triển đều nằm trong xu
thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là do giáo dục
đang trở thành một ngành dịch vụ, dịch vụ giáo dục ngày càng lành mạnh và
gia tăng theo chiều hướng thu hút của các nước giàu đối với các nước nghèo,
của các nước phát triển đối với các nước đang phát triển. Trước bối cảnh trên
cần xây dựng một nền dịch vụ giáo dục đại học Việt Nam bản lĩnh, truyền
thống chủ động hội nhập với khu vực và thế giới.
Khi giáo dục đại học là một loại hình dịch vụ điều này đồng nghĩa các cơ
sở giáo dục đại học là đơn vị cung cấp dịch vụ. Đối tượng khách hàng chủ
yếu của các cơ sở giáo dục đại học là người học, cụ thể ở đây chính là sinh
viên. Có thể nói sinh viên đóng nhiều vai trò trong dịch vụ đào tạo đại học,
đây là khách hàng quan trọng vì tham gia trực tiếp vào toàn bộ quá trình dịch
vụ và cũng là sản phẩm của giáo dục đào tạo.
1
Trong những năm gần đây, hệ thống giáo dục đại học nước ta không
ngừng phát triển cả về qui mô và chất lượng. Trong hệ thống đại học công lập
có: Đại học quốc gia, đại học vùng, trường đại học trọng điểm, đại học đa
ngành, chuyên ngành, đại học mở, đại học cộng đồng. Trong mạng lưới đại
học ngoài công lập có đại học bán công và dân lập. Nhiều trường đại học
đang được hiện đại hóa từ cơ sở vật chất kĩ thuật đến đội ngũ cán bộ, giáo
viên, nội dung chương trình đào tạo,v.v. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách
khách quan, giáo dục đại học nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo và việc nâng cao chất lượng
đào tạo.
Thách thức gay gắt nhất đối với giáo dục hiện nay là giữa yêu cầu phát
triển quy mô và các điều kiện đảm bảo chất lượng. Thực tế cho thấy, do điều
kiện kinh tế còn khó khăn, ngân sách hàng năm đầu tư cho giáo dục nói chung
và giáo dục đại học nói riêng còn thấp; không đủ trang trải cho những yêu cầu
tối cần thiết về các điều kiện đảm bảo như: trường sở, thư viện, phòng thí
nghiệm, nhà xưởng thực hành... Bên cạnh đó, yêu cầu nhanh chóng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, hội nhập giáo dục nước ta với các nước trong khu vực và
trên thế giới cũng như việc đổi mới chương trình nội dung, chương trình,
phương pháp giảng dạy đang đòi hỏi có những nỗ lực và quyết tâm cao.
Trong quản lý chất lượng hiện đại, triết lý hướng đến khách hàng đang
đóng vai trò chủ đạo. Một trong những yếu tố quyết định cho sự tồn tại và
phát triển của các đơn vị kinh doanh nói chung và các đơn vị trong lĩnh vực
giáo dục nói riêng là sự hài lòng của khách hàng về chất lượng dịch vụ - sản
phẩm mà đơn vị cung ứng. Chất lượng phải được đánh giá bởi chính những
khách hàng đang sử dụng chứ không phải bởi các đơn vị. Như vậy, trong lĩnh
vực giáo dục việc đánh giá chất lượng dịch vụ qua ý kiến của khách hàng,
trong đó khách hàng trọng tâm - người học (sinh viên) đang trở lên hết sức
2
cần thiết. Qua đó, các đơn vị đào tạo nói chung và các trường đại học nói
riêng có các nhìn nhận khách quan về những gì mình đã cung cấp, những gì
mình kỳ vọng thay vì chỉ quan tâm đến đầu tư cơ sở vật chất, trình độ đầu vào
- đầu ra và kết quả học tập của sinh viên và các yếu tố khác trong quá trình
đào tạo.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn của chất lượng giáo dục
nói chung và chất lượng đào tạo nói riêng, tôi lựa chọn đề tài: “Đánh giá sự
hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo tại Trường Đại học Kinh tế và
Quản trị kinh doanh – Đại học Thái Nguyên”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích chung
Trong giai đoạn xã hội hóa giáo dục, mở cửa và hội nhập, đào tạo đại
học được gọi như là một dịch vụ và các đơn vị đào tạo là nhà cung cấp dịch
vụ. Trong dịch vụ này, nổi bật vai trò của sinh viên như là một khách hàng sử
dụng dịch vụ. Nghiên cứu của luận văn sẽ đánh giá mức độ hài lòng của sinh
viên về dịch vụ của Nhà trường. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho nhà trường,
cán bộ quản lý và cán bộ giảng dạy nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo.
2.2. Mục đích cụ thể
- Hệ thống hóa lý luận về chất lượng và chất lượng trong giáo dục đại
học.
- Hệ thống lý thuyết thang đo SERVQUAL
- Đo lường chất lượng đào tạo thông qua sử dụng thang đo SERVQUAL.
- Đo lường sự tác động của các yếu tố chất lượng đào tạo đến sự hài lòng
của sinh viên.
- Đo lường sự phân bố khác biệt của các yếu tố chất lượng đào tạo và đo
lường sự hài lòng của sinh viên theo các yếu tố nhân khẩu học.
3
3. Những đóng góp mới của đề tài
- Làm sáng tỏ cơ sở khoa học và lý luận của chất lượng và chất lượng
giáo dục đào tạo.
- Đo lường và đánh giá sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo.
Đo lường sự tác động của các yếu tố chất lượng đào tạo đến sự hài lòng của
sinh viên.
- Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo thông qua sự hài lòng
của sinh viên tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh.
4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Căn cứ vào giới hạn về không gian và thời gian: nghiên cứu này tập
trung nghiên cứu tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – Đại
học Thái Nguyên.
Giới hạn về khách thể trong khảo sát nghiên cứu: Nghiên cứu tập trung
vào sinh viên hệ đại học chính qui năm thứ 2, thứ 3 và năm thứ 4 đang học
tập tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra khảo sát: nghiên cứu được thực hiện thông qua 2
bước chính: nghiên cứu sơ bộ/nghiên cứu thử và nghiên cứu chính thức.
Nghiên cứu sơ bộ thực hiện thông qua phương pháp định tính. Kỹ thuật
thảo luận nhóm được sử dụng trong nghiên cứu này và nó được dùng
để khám phá bổ sung mô hình...
Nghiên cứu chính thức thực hiện thông qua phương pháp nghiên cứu
định lượng, dùng kỹ thuật thu thập thông tin trực tiếp bằng cách phỏng
vấn sinh viên (phiếu điều tra). Mục đích nghiên cứu này là vừa để sàng
lọc các biến quan sát, vừa để xác định thành phần cũng như giá trị và
độ tin cậy của thang đo và kiểm định mô hình lý thuyết.
4
Việc kiểm định thang đo cùng với cả lý thuyết đề ra bằng hệ số tin cậy
Cronbach Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA; phân tích tương
quan, hồi qui.v.v. dựa trên kết quả xử lý số liệu thống kê qua phần mềm
SPSS version 13.0 và Microsoft Office Excel 2007.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tìm hiểu nghiên cứu các văn bản, tài
liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên
quan đến đề tài.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên
gia có kinh nghiệm trong giáo dục đại học nói chung và chất lượng đào tạo
nói riêng.
- Phương pháp thống kê toán học: Thu thập và sử lý số liệu trong quá
trình nghiên cứu thông qua công cụ phân tích là phần mềm Microsoft Office
Excel 2007 và SPSS version 13.0.
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu của đề tài
Yếu tố nào trong quá trình đào tạo khiến sinh viên hài lòng hơn các yếu
tố khác?
Giả thuyết nghiên cứu
Nhóm giả thuyết về quan hệ giữa các thành phần chất lượng của hoạt
động đào tạo đối với sự hài lòng:
H1: Cơ sở vật chất quan hệ dương với sự hài lòng
H2: Khả năng thực hiện cam kết quan hệ dương với sự hài lòng
H3: Sự nhiệt tình của cán bộ và giảng viên quan hệ dương với sự
hài lòng
H4: Đội ngũ giảng viên quan hệ dương với sự hài lòng
H5: Sự quan tâm của Nhà trường tới sinh viên quan hệ dương với
sự hài lòng.
5
Nhóm giả thuyết về sự khác biệt trong đánh gía chất lượng đào tạo và sự
hài lòng theo các biến nhân khẩu học và đặc trưng cá nhân của sinh viên như:
Khoa, Năm học, Học lực, Giới tính.
H6: Có sự khác biệt về đánh giá chất lượng theo Khoa.
H7: Có sự khác biệt về đánh giá chất lượng theo Năm học.
H8: Có sự khác biệt về đánh giá chất lượng theo Học lực.
H9: Có sự khác biệt về đánh giá chất lượng theo Giới tính.
Giả thuyết H6; H7; H8; H9 gồm có giả thuyết nhánh tương ứng việc
kiểm định sự khác biệt của 5 thành phần chất lượng đào tạo:
H10: Có sự khác biệt về mức độ hài lòng theo Khoa.
H11: Có sự khác biệt về mức độ hài lòng theo Năm học.
H12: Có sự khác biệt về mức độ hài lòng theo Học lực.
H13: Có sự khác biệt về mức độ hài lòng theo Giới tính
7. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đánh giá chất lượng đào tạo của trường Đại học
Kinh tế và Quản trị kinh doanh thông qua sự hài lòng của sinh viên.
Khách thể nghiên cứu: Sinh viên đại học hệ chính qui trường Đại học
Kinh tế và Quản trị kinh doanh.
Nghiên cứu lựa chọn trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh là
nơi nghiên cứu chính thức cho luận văn, đây là nơi mà học viên cao học đang
công tác. Bên cạnh đó, trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh là đơn
vị đào tạo phục vụ chủ yếu cho phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh trung
du, miền núi Bắc bộ - một trong những vùng nghèo nhất cả nước nhưng lại
giữ một vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh, quốc phòng, về chính trị-xã hội,
về kinh tế và môi trường đối với sự phát triển bền vững của đất nước
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn kết cấu gồm các phần:
6
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Bối cảnh nghiên cứu và Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Mức độ hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo tại
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh
Kết luận và Giải pháp
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở lý luận về chất lượng và chất lượng trong GDĐH
1.1.1.1.Các quan điểm về chất lượng
Khái niệm chất lượng đã xuất hiện từ rất lâu, ngày nay được sử dụng phổ
biến và rất thông dụng hàng ngày trong cuộc sống cũng như trong sách báo.
Bất cứ ở đâu hay trong tài liệu nào, chúng ta đều thấy xuất hiện thật ngữ chất
lượng. Tuy nhiên, hiểu thế nào là chất lượng lại là vấn đề không đơn giản.
Chất lượng là một phạm trù rất rộng và phức tạp, phản ánh tổng hợp các nội
dung kinh tế, kĩ thuật và xã hội. Do tính phức tạp đó nên hiện này có rất nhiều
khái niệm khác nhau về chất lượng. Mỗi khái niệm đều có cơ sở khoa học
nhằm giải quyết mục tiêu, nhiệm vụ nhất định trong thực tế. Dưới đây là một
số cách hiểu về khái niệm “chất lượng”.
Theo Juran “Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu” [18].
Theo Feigenbaum “Chất lượng là quyết định của khách hàng dựa trên
kinh nghiệm thực tế đối với sản phẩm hoặc dịch vụ, được đo lường dựa trên
những yêu cầu của khách hàng, những yêu cầu này có thể được nêu ra hoặc
không được nêu ra, được ý thức hoặc đơn giản chỉ là cảm nhận, hoàn toàn chủ
quan hoặc mang tính chuyên môn và luôn đại diện cho mục tiêu động trong
một thị trường cạnh tranh” [15].
Theo Russell “Chất lượng thể hiện sự vượt trội của hàng hóa và dịch vụ,
đặc biệt đạt đến mức độ mà người ta có thể thỏa mãn mọi nhu cầu và làm hài
lòng khách hàng” [22].
Theo Ishikawa (Nhật Bản) “Chất lượng là sự thỏa mãn nhu cầu thị
trường” [9].
8
Theo Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) – ISO 9000:2000 “Chất
lượng là mức độ thỏa mãn của một tập hợp các thuộc tính đối với các yêu
cầu” [12].
1.1.1.2. Chất lượng trong giáo dục đại học
Khái niệm “chất lượng giáo dục đại học” hay “chất lượng trong giáo dục
đại học” có nhiều cách hiểu khác nhau, nguyên nhân là do cách tiếp cận vấn
đề của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, theo định nghĩa của Green và Harvey
(1993) được đánh giá có tính khái quát và hệ thống [17]. Green & Harvey đã
đề cập đến năm khía cạnh của chất lượng giáo dục đại học: chất lượng là sự
vượt trội (hay sự xuất sắc); là sự hoàn hảo (kết quả hoàn thiện, không sai sót);
là sự phù hợp với mục tiêu (đáp ứng nhu cầu của khách hàng); là sự đáng giá
về đồng tiền (trên khía cạnh đánh giá để đầu tư); là sự chuyển đổi (sự chuyển
đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác). Trong số các định nghĩa trên, định
nghĩa: “chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu” đang được sử dụng bởi nhiều
cơ quan đảm bảo chất lượng trên thế giới như: Hoa Kỳ, Anh Quốc và các
nước Đông Nam Á,v.v. [23].
Theo cách tiếp cận về chất lượng trong giáo dục đại học, Glen A.J đã
đưa ra khái nhiệm về chất lượng giáo dục [16].
a. Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu vào”
Một số nước phương Tây có quan điểm cho rằng “Chất lượng một
trường đại học phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào của trường
đó”. Quan điểm này được gọi là “quan điểm nguồn lực” có nghĩa là: nguồn
lực bằng chất lượng.
Theo quan điểm này, một trường đại học tuyển được SV giỏi, có đội ngũ
cán bộ giảng dạy uy tín, có nguồn tài chính cần thiết để trang bị các phòng thí
nghiệm, giảng đường, các thiết bị tốt nhất được xem là sẽ có chất lượng cao.
Quan điểm này đã bỏ qua sự tác động của quá trình đào tạo diễn ra rất đa
9
một chương trình đào tạo
hiệu quả.
b. Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu ra”
Một quan điểm khác về chất lượng GD ĐH cho rằng “đầu ra” của GD
ĐH có tầm quan trọng hơn nhiều so với “đầu vào” của quá trình đào tạo.
“Đầu ra” chính là sản phẩm của GD ĐH được thể hiện bằng mức độ hoàn
thành công việc của SV tốt nghiệp hay khả năng cung cấp các hoạt động đào
tạo của trường đó.
Có 2 vấn đề cơ bản có liên quan đến cách tiếp cận chất lượng GD ĐH
này: Thứ nhất, mối liên hệ giữa “đầu vào” và “đầu ra” không được xem xét
đúng mức. Trong thực tế mối liên hệ này có thực cho dù đó không phải là
quan hệ nhân quả. Một trường có thể tiếp nhận những SV xuất sắc, không có
nghĩa là SV của họ sẽ tốt nghiệp loại xuất sắc. Thứ hai, cách đánh giá “đầu
ra” của các trường rất khác nhau.
c. Chất lượng được đánh giá bằng “Giá trị gia tăng”
Quan điểm này cho rằng một trường đại học có tác động tích cực tới SV
khi nó tạo ra được sự khác biệt trong sự phát triển trí tuệ và cá nhân của SV.
“Giá trị gia tăng” được xác định bằng giá trị của “đầu ra” trừ đi giá trị của
“đầu vào”, kết quả thu được mà trường đại học đã đem lại cho SV được đánh
giá là CLGD ĐH. Nếu quan điểm về CLDG ĐH như vậy thì khó có thể thiết
kế một thước đo thống nhất để đánh giá chất lượng “đầu vào” và “đầu ra” để
tìm ra hiệu số của chúng và đánh giá chất lượng của trường đó. Thêm vào đó,
10
d. Chất lượng được đánh giá bằng “Giá trị học thuật”
Đây là quan điểm truyền thống của nhiều trường đại học phương Tây,
chủ yếu dựa vào sự đánh giá của các chuyên gia về năng lực học thuật của đội
ngũ cán bộ giảng dạy trong từng trường trong quá trình thẩm định công nhận
chất lượng đào tạo đại học. Điều này có nghĩa là trường đại học nào có đội
ngũ giáo sư, tiến sĩ đông, có uy tín khoa học cao thì được xem là trường có
chất lượng cao.
Điểm yếu của cách tiếp cận này là ở chỗ, cho dù năng lực học thuật có
thể được đánh giá một cách khách quan, thì cũng khó có thể đánh giá những
cuộc cạnh tranh của các trường đại học để nhận tài trợ cho các công trình
nghiên cứu trong môi trường bị chính trị hóa. Hơn nữa, liệu có thể đánh giá
được năng lực chất xám của đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khi xu
hướng chuyên ngành hóa ngày càng sâu, phương pháp luận ngày càng đa
dạng.
e. Chất lượng được đánh giá bằng “Văn hóa tổ chức riêng”
Quan điểm này dựa trên nguyên tắc các trường đại học phải tạo ra được
“Văn hóa tổ chức riêng” hỗ trợ cho quá trình cải tiến liên tục chất lượng. Vì
vậy, một trường được đánh giá là có chất lượng khi nó có được “Văn hóa tổ
chức riêng” với nét đặc trưng quan trọng là không ngừng nâng cao chất lượng
đào tạo. Quan điểm này bao hàm cả các giả thiết về bản chất của chất lượng
và bản chất của tổ chức. Quan điểm này được mượn từ lĩnh vực công nghiệp
và thương mại nên khó có thể áp dụng trong lĩnh vực GD ĐH.
11
g. Chất lượng được đánh giá bằng “Kiểm toán”
Quan điểm này về CLGD ĐH xem trọng quá trình bên trong trường đại
học và nguồn thông tin cung cấp cho việc ra quyết định. Nếu kiểm toán tài
chính xem xét các tổ chức có duy trì chế độ sổ sách tài chính hợp lí không, thì
kiểm toán chất lượng quan tâm xem các trường đại học có thu thập đủ thông
tin phù hợp và những người ra quyết định có đủ thông tin cần thiết hay không,
quá trình thực hiện các quyết định về chất lượng có hợp lí và hiệu quả không.
Quan điểm này cho rằng nếu một cá nhân có đủ thông tin cần thiết thì có thể
có được các quyết định chính xác, và chất lượng GD ĐH được đánh giá qua
quá trình thực hiện, còn “đầu vào” và “đầu ra” chỉ là các yếu tố phụ.
Điểm yếu của các đánh giá này là sẽ khó lí giải những trường hợp khi
một cơ sở đại học có đầy đủ phương tiện thu thập thông tin, song vẫn có thể
có những quyết định chưa phải là tối ưu.
Theo cách tiếp cận của Tổ chức Đảm bảo chất lượng Giáo dục Đại học
quốc tế [5].
Tổ chức Đảm bảo chất lượng GD ĐH quốc tế (INQAHE – International
Network of Quality Assurance in Higher Education) đã đưa ra 2 định nghĩa về
chất lượng giáo dục đại học là: (i) Tuân theo các chuẩn qui định; (ii) Đạt được
các mục tiêu đề ra.
Theo định nghĩa thứ nhất, cần có Bộ tiêu chí chuẩn cho GD ĐH về tất cả
các lĩnh vực và việc kiểm định chất lượng một trường đại học sẽ dựa vào Bộ
tiêu chí chuẩn đó. Theo định nghĩa thứ hai, khi không có bộ tiêu chí chuẩn
việc thẩm định chất lượng GD ĐH sẽ được dựa trên mục tiêu của từng lĩnh
vực để đánh giá. Những mục tiêu này sẽ được xác lập trên cơ sở trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước và những điều kiện đặc thù của trường đó.
Như vậy, để đánh giá chất lượng đào tạo của một trường cần dùng Bộ
tiêu chí có sẵn; hoặc dùng các chuẩn đã qui định; hoặc đánh giá mức độ thực
12
Một số cách tiếp cận khác về chất lượng trong giáo dục đại học
a. Chất lượng được hiểu theo quan niệm truyền thống
Một sản phẩm có chất lượng là sản phẩm được làm ra và hoàn thiện
bằng các vật liệu quý hiếm và đắt tiền. Sản phẩm đó nổi tiếng và tôn vinh
thêm cho người sở hữu nó. Với khái niệm về chất lượng như vậy khó có thể
dùng để đánh giá chất lượng giảng dạy đại học nói riêng và toàn bộ hệ thống
giáo dục đào tạo nói chung. Chất lượng với nghĩa này có thể tương đồng với
chất lượng đào tạo của các trường đại học danh tiếng thế giới như Harvard,
Oxford, Cambridge. Nếu mỗi trường đại học được đánh giá bằng các tiêu
chuẩn như đã sử dụng cho các trường trên thì đa số các trường đại học còn lại
đều là những trường chất lượng kém.
b. Chất lượng là sự phù hợp giữa các tiêu chuẩn (thông số kỹ thuật)
Cách tiếp cận này xuất phát từ thực tế kiểm soát chất lượng trong các
ngành sản xuất dịch vụ. Trong bối cảnh này tiêu chuẩn được xem như là công
cụ đo lường hoặc bộ thước đo, một phương tiện trung gian để miêu tả đặc tính
cần có của một sản phẩm hay dịch vụ. Trong GD ĐH cách tiếp cận này tạo cơ
hội cho các trường đại học muốn nâng cao chất lượng đào tạo có thể đề ra các
tiêu chuẩn nhất định về các lĩnh vực trong quá trình đào tạo và nghiên cứu
khoa học và phấn đấu theo các tiêu chuẩn đó. Nhược điểm của cách tiếp cận
này là không nêu rõ các tiêu chuẩn được xây dựng trên cơ sở nào. Trong một
số trường hợp tiêu chuẩn trong GD ĐH được hiểu là những thành tựu của SV
khi tốt nghiệp là chất lượng trong GD ĐH. Tức là được sử dụng để nói đến
đầu ra của GD ĐH với ý nghĩa là trình độ, kiến thức, kỹ năng đạt được của
13
c. Chất lượng là sự đáp ứng nhu cầu của k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van Tran Xuan Kien DLDG2006.pdf
- Abstract of Thesis Kien DLDG06.pdf