Nguyễn Minh Châu là nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học 
hiện đại Việt Nam. Quá trình sáng tác của ông gắn liền với sự trưởng thành
một nhà văn chiến sĩ. Ông đã cùng đồng đội trải qua những năm tháng ác liệt 
của cuộc kháng chiến chống M ỹ cứu nước và giai đoạn thăng trầm của thời kỳ
hậu chiến. Sự nghiệp văn chương của ông là tấm gương phản chiếu quá trình
vận động và phát triển của văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu từ Cửa Sông (1967); Dấu chân người lính (1972); Những 
vùng trời khác nhau (1970); Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà (1977);
Những người đi từ trong rừng ra (1982) đến Người đàn bà trên chuyến tàu 
tốc hành (1983); Bến quê (1985); Mảnh đất tình yêu (1987); Chiếc thuyền 
ngoài xa (1987); Cỏ lau (1989); đã cho thấy sự đổi mới của nhà văn trong tư
duy nghệ thuật, khởi đầu từ cuộc“chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc” 
chuyển sang “cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người ”.
Là nhà văn tâm huyết, suốt đời trăn trở, băn khoăn về lẽ sống và sáng
tạo, Nguyễn Minh Châu đã âm thầm “tự đổi mới trước khi làn sóng đổi mới 
dâng lên mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của dân tộc”. Trên “hành trình tư 
tưởng” của mình, nhà văn đau đáu tìm cội nguồn đích thực của một nền vă n 
học mang tính nhân bản và nhân loại, khám phá những vấn đề thuộc về số
phận con người.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
101 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2318 | Lượt tải: 3
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Di cảo nguyễn minh châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM 
------------***------------ 
LỤC THỊ THUÝ HÀ 
DI CẢO NGUYỄN MINH CHÂU 
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN 
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM 
MÃ SỐ : 60.22.34 
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: 
 PGS.TS NGUYỄN THỊ BÍCH THU 
Thái Nguyên - 2010 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
LỜI CẢM ƠN 
 Em xin chân thành bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc tới PGS - TS Nguyễn Thị 
Bích Thu, cô giáo đã tận tâm hướng dẫn chỉ bảo em trong quá trình nghiên 
cứu và hoàn thành luận văn. 
 Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt thành giảng dạy của các thầy cô 
trong khoa Ngữ văn nói chung, các thầy cô trong tổ Văn học Việt nam trường 
Đại học sư phạm Thái Nguyên nói riêng để em có thể hoàn thành luận văn 
theo đúng kế hoạch đào tạo! 
 Thái Nguyên, tháng 8 năm 2010 
 Tác giả luận văn 
 Lục Thị Thuý Hà 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
MỤC LỤC 
STT 
PHẦN MỞ ĐẦU 
Trang 
1. Lí do chọn đề tài.......................................................................... 1 
2. Lịch sử vấn đề.............................................................................. 3 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................ 7 
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................. 7 
5. Mục đích khoa học...................................................................... 8 
6. Bố cục luận văn........................................................................... 8 
NỘI DUNG 
 CH¦¥NG I: dI C¶O nGUYÔN mINH CH¢U TRONG 
Sù NGHIÖP S¸NG T¸C CñA NHµ V¡N 
9 
1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Minh Châu…….. 9 
1.2. Vị trí của Di cảo trong văn nghiệp Nguyễn Minh Châu……….. 24 
1.3. Giá trị của Di cảo Nguyễn Minh Châu………………………… 26 
 CHƢƠNG II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HIỆN THỰC XÃ HỘI 
VÀ VĂN HỌC TRONG DI CẢO NGUYỄN MINH CHÂU 
29 
2.1. Một số vấn đề về hiện thực xã hội và cái nhìn đa diện về con 
người………………………………………………………….. 
30 
2.1.1. Cái nhìn sâu sắc về hiện thực chiến tranh và sau chiến tranh….. 30 
2.1.2. Cái nhìn đa diện về con người…………………………………. 37 
2.2. Quan niệm về nghề văn, trăn trở của người cầm bút………… 46 
2.2.1. Những cảm nhận về văn học trong nước và thế giới………….. 53 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
2.2.2. Những chuyển biến tư tưởng, nhận thức về nghề văn có ý nghĩa 
trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu………………………… 
56 
2.2.2.1. Thiên chức của người cầm bút………………………………… 58 
2.2.2.2. Cách phản ánh hiện thực xã hội……………………………...... 60 
 CHƢƠNG III: CHÂN DUNG NGUYỄN MINH CHÂU 
QUA DI CẢO 
62 
3.1. Nguyễn Minh Châu - gương mặt đời thường………………….. 63 
3.1.1. Một con người thành thực với công việc, với vợ con, bạn bè 
đồng nghiệp và với chính mình……………………………….. 
63 
3.1.1.1. Thành thực với chính mình….................................................... 63 
3.1.1.2. Thành thực với vợ con…………………………………………. 67 
3.1.1.3. Tình cảm với bạn bè đồng nghiệp…………………………….. 69 
3.1.2. Đối mặt với bạo bệnh………………………………………….. 71 
3.1.2.1. Chống chọi với bệnh tật với tất cả ý chí và niềm tin…………... 71 
3.1.2.2. Những sáng tác trên giường bệnh……………………………… 72 
3.2. Nguyễn Minh Châu - gương mặt nghệ sĩ lớn………………….. 74 
3.2.1. Gắn bó với quê hương và vùng đất “nóng” Quảng Trị………… 74 
3.2.2. Những đột phá trong sáng tác…………………………………. 80 
3.2.2.1. Nguyễn Minh Châu với Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra, Miền 
cháy, Dấu chân người lính, Cỏ lau…………………………….. 
83 
3.2.2.2. Nguyễn Minh Châu với các trang phê bình tiểu luận …………. 87 
 KẾT LUẬN 92 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
1 
PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lí do chọn đề tài 
 Nguyễn Minh Châu là nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học 
hiện đại Việt Nam. Quá trình sáng tác của ông gắn liền với sự trưởng thành 
một nhà văn chiến sĩ. Ông đã cùng đồng đội trải qua những năm tháng ác liệt 
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và giai đoạn thăng trầm của thời kỳ 
hậu chiến. Sự nghiệp văn chương của ông là tấm gương phản chiếu quá trình 
vận động và phát triển của văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của 
Nguyễn Minh Châu từ Cửa Sông (1967); Dấu chân người lính (1972); Những 
vùng trời khác nhau (1970); Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà (1977); 
Những người đi từ trong rừng ra (1982) đến Người đàn bà trên chuyến tàu 
tốc hành (1983); Bến quê (1985); Mảnh đất tình yêu (1987); Chiếc thuyền 
ngoài xa (1987); Cỏ lau (1989); đã cho thấy sự đổi mới của nhà văn trong tư 
duy nghệ thuật, khởi đầu từ cuộc“chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc” 
chuyển sang “cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người”. 
 Là nhà văn tâm huyết, suốt đời trăn trở, băn khoăn về lẽ sống và sáng 
tạo, Nguyễn Minh Châu đã âm thầm “tự đổi mới trước khi làn sóng đổi mới 
dâng lên mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của dân tộc”. Trên “hành trình tư 
tưởng” của mình, nhà văn đau đáu tìm cội nguồn đích thực của một nền văn 
học mang tính nhân bản và nhân loại, khám phá những vấn đề thuộc về số 
phận con người. 
 Những năm gần đây, Di cảo của một số nhà văn, nhà thơ như: Nhật kí 
Nguyễn Huy Tưởng (2006), Dương Thị Xuân Quý - Nhật kí - Tác phẩm 
(2007); Di cảo Lưu Quang Vũ (2008); Di cảo thơ Chế Lan Viên (1992); Di 
cảo thơ Phùng Khắc Bắc (1994)… đã trở thành một hiện tượng khá đặc biệt 
trong đời sống văn học. Với Di cảo Nguyễn Minh Châu (2009) cũng không 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
2 
phải là trường hợp ngoại lệ. Những cuốn Di cảo - một dạng của nhật kí đã cho 
người đọc hiểu hơn một thời kì lịch sử đã qua về cuộc đời và những sáng tác 
gắn với thời đại, dân tộc và với chính họ. Hơn hai mươi năm Nguyễn Minh 
Châu vĩnh biệt cõi đời, song ông đã trở thành “người trong cõi nhớ” của 
người thân và độc giả. Những trang Di cảo, những ghi chép của ông được 
người bạn đời là bà Nguyễn Thị Doanh nâng niu, cất giữ bấy lâu nay đã được 
công bố. Di cảo Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta thấy không chỉ sự thật 
của một giai đoạn lịch sử: Cuộc chiến tranh, số phận con người, số phận dân 
tộc cùng những trăn trở, suy tư của nhà văn với ý thức công dân - nghệ sĩ của 
mình mà còn giúp người đọc hình dung một cách đầy đủ hơn về Nguyễn 
Minh Châu, một trong số hiếm hoi các cây bút đi tiên phong trong công cuộc 
đổi mới văn học, bằng những trang viết của mình đã làm rạn nứt những quan 
niệm khô cứng một thời về văn học và lao động nghệ thuật. 
Lâu nay sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu gồm những tác 
phẩm được xuất bản, công bố đã thu hút sự quan tâm của giới sáng tác và 
nghiên cứu phê bình. Nhưng Di cảo của nhà văn - những ghi chép còn lại 
trong di sản văn chương của ông đến hôm nay mới chính thức ra mắt công 
chúng. Với gần 500 trang, cuốn Di cảo Nguyễn Minh Châu đã phơi tỏ, bổ 
sung thêm những điều còn chìm ẩn trong cảm nghĩ, nhận thức, với những trăn 
trở, khát khao sống và sáng tạo của nhà văn. Như vậy, tìm hiểu Di cảo 
Nguyễn Minh Châu không chỉ để hiểu hơn chân dung đích thực và hoàn chỉnh 
về nhà văn mà còn là cơ hội để nhìn nhận thấu đáo hơn về sự nghiệp văn học 
cùng những đổi mới có ý nghĩa quan trọng trong tư duy sáng tạo của ông 
trong cả một quá trình sống và viết. Đó là những gợi dẫn cho chúng tôi lựa 
chọn đề tài Di cảo Nguyễn Minh Châu. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
3 
2. Lịch sử vấn đề 
2.1. Ý kiến đánh giá sự nghiệp sáng tác Nguyễn Minh Châu 
Sáng tác của Nguyễn Minh Châu có một mảng gắn với thời kì đổi 
mới.Với những sáng tác này, nhà văn được tôn vinh là người “Mở đường tinh 
anh” cho cuộc đổi mới văn học, vì thế sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã 
được các nhà nghiên cứu phê bình văn học chú ý ngay từ khi những tác phẩm 
đầu tiên ra đời và càng về sau thì cách đánh giá càng thoả đáng và toàn diện 
hơn. Mỗi người tiếp cận tác phẩm ở một góc độ và có những cách đánh giá, 
nhận xét, nhìn nhận sự thành công ở từng mức độ khác nhau nhưng tất cả đều 
có chung sự tin tưởng: Nguyễn Minh Châu là tài năng văn xuôi nhiều triển 
vọng. Đến nay đã có rất nhiều công trình, bài viết về Nguyễn Minh Châu và 
sự nghiệp của ông, trong đó phải kể đến các cuốn sách tuyển chọn bài viết của 
nhiều tác giả như: Nguyễn Minh Châu - Con Người và Tác Phẩm (Nhiều tác 
giả; do Tôn Phương Lan và Lại Nguyên Ân biên soạn - Nxb Hội nhà văn 
1991), Nguyễn Minh Châu - Tài năng và sáng tạo nghệ thuật (Mai Hương 
biên soạn - NxbVhoá - TT 2001). 
 Gần đây nhất là cuốn Nguyễn Minh Châu về tác giả - tác phẩm 
(NxbGD- 2002) do Nguyễn Trọng Hoàn tuyển chọn. 
2.1.1. Thời kì trƣớc 1975 
Trước cuộc kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Minh Châu đã có hơn 10 
truyện ngắn và bút kí in trên Tạp chí Văn nghệ quân đội. Nhưng phải đến tiểu 
thuyết Cửa sông (1967) thì con đường văn học của Nguyễn Minh Châu mới 
thực sự định hình. Tiếp đó tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970) 
và nhất là tiểu thuyết Dấu chân người lính (1972) đã đưa Nguyễn Minh Châu 
vào trong số những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học chống Mỹ. 
 Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước 1975 như Cửa sông; Dấu 
chân người lính, ngay từ khi xuất hiện đã được độc giả đón nhận nồng nhiệt. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
4 
Nhận định về sự thành công của tác phẩm Cửa sông, giáo sư Phong Lê viết: 
“Tác giả tỏ ra có khả năng khái quát hoá cuộc sống, biết lựa chọn những tình 
huống, những tính cách điển hình” [33]. Với Dấu chân người lính, nhà 
nghiên cứu Tôn Phương Lan nhận xét: “Tác phẩm đã đi thẳng vào cuộc chiến 
đấu ác liệt và ngoan cường nơi tiền tuyến… xây dựng nhân vật đẹp đẽ , giàu 
chất lãng mạn” [35]. Các nhà nghiên cứu phê bình: Lại Nguyên Ân, Thiếu 
Mai, Nguyễn Kiên, Nguyễn Đăng Mạnh, Vương Trí Nhàn… cũng đều có 
nhiều những bài viết công phu về giai đoạn sáng tác này của Nguyễn Minh 
Châu và hầu hết các tác giả nói trên đều thống nhất khẳng định ông là một tài 
năng văn xuôi nhiều hứa hẹn. 
2.1.2. Thời kì sau 1975 
Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng Nguyễn Minh Châu nhanh 
chóng hoà nhập với cuộc sống mới của dân tộc. Là nhà văn nhạy cảm với 
những biến đổi của đời sống xã hội sau chiến tranh, ông lần lượt cho ra đời 
những tiểu thuyết: Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Những 
người đi từ trong rừng ra (1982), Mảnh đất tình yêu (1987) cùng các tập 
truyện ngắn Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau mang 
những sắc điệu mới trong bút pháp cũng như giọng điệu của nhà văn. 
Những tác phẩm này được các nhà nghiên cứu phê bình văn học: 
Nguyễn Văn Long, Nhị Ca, …đánh giá khá cao. Các nhà nghiên cứu thấy ở 
Nguyễn Minh Châu “Sự không chịu dừng lại” mà đã có dấu hiệu tìm tòi đổi 
mới. Điều này chứng tỏ Nguyễn Minh Châu luôn luôn trăn trở tìm kiếm một 
lối đi riêng biệt để thể hiện một cách chính xác hơn, chân thực hơn những vấn 
đề nóng bỏng của đời sống. Nếu như chia sáng tác của Nguyễn Minh Châu 
thành hai giai đoạn cụ thể thì những sáng tác cuối thập kỉ bảy mươi, đầu thập 
kỉ tám mươi là một giai đoạn có tính chất quá độ. Để rồi sau đó ít lâu Nguyễn 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
5 
Minh Châu trở thành một trong những nhà văn tiên phong trong công cuộc 
đổi mới văn học. 
Với ba tập truyện ngắn Người đàn bà trên tuyến tàu tốc hành, Bến quê, 
Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu đã trở thành một “hiện tượng” văn học. Điều đó 
đã tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau trong giới phê bình văn học, thậm chí 
có lúc các ý kiến trái ngược nhau, nhưng được đưa ra bàn luận sôi nổi, được 
phân tích kĩ lưỡng ở nhiều góc độ khác nhau, đã xuất hiện một loạt bài viết 
của các nhà phê bình. 
Nhìn chung các ý kiến đánh giá, nhận xét trong cuộc thảo luận đã kết 
luận: Sáng tác của Nguyễn Minh Châu: “Là một khuynh hướng tìm tòi trong 
nghệ thuật”. Tuy vậy, vẫn có ý kiến cho rằng:“Truyện ngắn của Nguyễn 
Minh Châu mới thành công một nửa” [50]. 
Bên cạnh một số ý kiến đánh giá có phần dè dặt là đa số các ý kiến ghi 
nhận thành tựu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu cùng những đóng góp 
mới mẻ của nhà văn với thể loại này. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sau khi 
phân tích, đánh giá truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra cái mới của nhà 
văn “Sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã có chiều sâu mới mẻ nảy sinh trong 
sự đổi mới của các bình diện nhận thức đời sống, mạnh dạn đi tìm cách thể 
hiện khác nhau làm phong phú các khả năng nghệ thuật của mình và của nền 
văn xuôi đang bước vào thời kỳ phát triển mới” [1]. 
Trần Đình Sử lại ghi nhận sự thành công của Nguyễn Minh Châu dưới 
con mắt của một nhà thi pháp học. Ông cho rằng:“Truyện ngắn của Nguyễn 
Minh Châu xuất hiện như là một hiện tượng văn học mới, một phong cách 
trần thuật mới” và đặc sắc của tập Bến quê chủ yếu là thể hiện một hướng 
trần thuật có chiều sâu” [53]. 
 Với Phiên chợ Giát, một truyện ngắn được hoàn thành ngay trên 
giường bệnh vào chính những ngày cuối cùng của cuộc đời, Nguyễn Minh 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
6 
Châu đã gửi thông điệp nghệ thụât cuối cùng của nhà văn như,“một di chúc 
khắc khoải đẫm máu”, với người đọc. Đỗ Đức Hiểu đã viết: “Phiên chợ Giát 
có một tầm cỡ lớn. Nó là một chấn thương nhức nhối, một bức tranh với bao 
cảnh hoang vu, với nhiều mảng tối và những chấm đỏ màu máu…”[32]. 
Ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy, song Phiên chợ Giát là một 
trong những thiên truyện hay nhất của Nguyễn Minh Châu, “Một kiệt tác của 
văn học hiện đại chúng ta” nó “bộc lộ sự tinh tế, tài hoa của một cây bút mà 
tài năng đang ở độ chín” (Nguyên Ngọc). 
Cái chết của nhà văn đã gây nhiều xúc động, luyến tiếc nhất là vào thời 
điểm văn học nước ta đang có những chuyển động phong phú, sâu sắc và 
phức tạp. Sau khi ông mất, nhiều nhà phê bình đã viết bài tưởng niệm.Tất cả 
đều có chung một nhận xét: Nguyễn Minh Châu là nhà văn có nhân cách lớn, 
một tài năng văn học thật sự. Những sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau khi 
ông qua đời (1989) vẫn tiếp tục thu hút các nhà nghiên cứu, phê bình tìm hiểu 
và nghiên cứu trên những góc nhìn mới. 
2.2. Ý kiến đánh giá Di cảo Nguyễn Minh Châu 
 Trong lời giới thiệu cuốn sách Di cảo Nguyễn Minh Châu, tác giả Hoàng 
Châu Minh đã viết: “Cùng với toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông, cuốn Di 
cảo này giúp cho những ai quan tâm đến nền văn học hiện đại Việt Nam và tác 
giả Nguyễn Minh Châu có một bức chân dung hoàn chỉnh về ông - một nhà văn 
chiến sĩ - suốt đời không ngừng trăn trở lo âu về số phận con người và săn 
đuổi một cách riết ráo ngay chính bản thân mình” [41-10]. 
 Nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan trong bài viết “Cái nhìn ngược 
sáng từ Di cảo Nguyễn Minh Châu” đã nhận thấy: 
“Di cảo Nguyễn Minh Châu không chỉ cho chúng ta thấy được phần 
nào sự thật của một giai đoạn lịch sử cuộc chiến tranh, số phận mỗi con 
người, số phận dân tộc cũng như những trăn trở, suy tư của nhà văn về 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
7 
trách nhiệm nghệ sĩ của mình mà qua đó chúng ta cũng có một hình dung 
rõ hơn về một Nguyễn Minh Châu - một trong số các nhà văn sớm đi đầu 
trong công cuộc đổi mới và cũng hiểu được vì sao ông đã chọn cách đi ấy, 
do đâu mà ông lại thành công như vậy” [41- 12]. 
Điểm lại lịch sử vấn đề có thể khái quát rằng: Về sự nghiệp sáng tác 
của Nguyễn Minh Châu đã được nhiều cây bút nghiên cứu, các đề tài luận 
văn quan tâm đến như Quan niệm nghệ thuật về con người, Những đổi mới 
tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, Cảm hứng nhân văn trong sáng 
tác của Nguyễn Minh Châu…Và “ như là để nói đến sự sống sau cái chết”. 
Năm 2009, cuốn Di cảo Nguyễn Minh Châu ra đời đã giúp người đọc có cái 
nhìn đầy đủ hơn về Nguyễn Minh Châu trong đời sống, cũng như đời viết 
của mình. Và đây chính là khoảng trống để chúng tôi tiếp cận và triển khai 
đề tài: Di cảo Nguyễn Minh Châu. 
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu 
Luận văn đi sâu tìm hiểu Di cảo Nguyễn Minh Châu nhằm ghi nhận vị 
trí và giá trị của Di cảo trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu, trên 
cơ sở đó nhận diện một cách đầy đủ và toàn diện hơn chân dung nhà văn . 
3.2. Phạm vi nghiên cứu 
 Di cảo Nguyễn Minh Châu, NXB Hà Nội, 2009 và các sáng tác của nhà văn. 
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 
- Phương pháp thống kê, phân loại. 
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: 
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: 
5. Mục đích khoa học 
- Nhận diện Di cảo Nguyễn Minh Châu và vị trí của nó trong sự nghiệp 
văn chương của nhà văn. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
8 
- Tìm hiểu Di cảo Nguyễn Minh Châu để thấy rõ hơn sự chuyển đổi tư 
duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu về văn học, về hiện thực, về con 
người, về nghề văn. Một cây bút có ý thức tiên phong trong công cuộc đổi 
mới văn học. 
- Nghiên cứu Di cảo Nguyễn Minh Châu góp phần nhận diện đầy đủ 
hơn chân dung và nhân cách nhà văn trong quá trình sống và viết của ông. 
6. Bố cục luận văn 
 Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn gồm ba chương. 
 Chương I: Di cảo Nguyễn Minh Châu trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. 
 Chương II: Một số vấn đề của hiện thực xã hội và văn học trong Di Cảo 
Nguyễn Minh Châu. 
Chương III: Chân dung Nguyễn Minh Châu qua Di cảo. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
9 
NỘI DUNG 
CH¦¥NG I 
 dI C¶O nGUYÔN mINH CH¢U TRONG Sù NGHIÖP S¸NG T¸C 
CñA NHµ V¡N 
1.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Minh Châu 
Nhà văn Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20.10.1930; mất ngày 23.1.1989. 
Quê gốc: Làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. 
Làng Văn Thái tục gọi là làng Thơi chuyên nghề đánh cá khơi và làm 
muối, là một vùng quê nghèo, đời sống văn hoá rất thấp. 
Nguyễn Minh châu sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả, nhưng 
sa sút sau cách mạng tháng Tám. Cha cũng có chút học hành. Mẹ quanh năm 
làm việc đồng áng, không biết chữ, rất giàu tình thương và lòng hy sinh vì con 
cái, đặc biệt thương chiều Nguyễn Minh Châu là con út. Tuy khá giả nhưng 
Nguyễn Minh Châu rất khắc khổ. Con cái trong nhà chỉ con trai là được học 
hành đến nơi đến chốn, còn con gái không được đi học. Những người chị của 
Nguyễn Minh Châu (chị ruột, chị dâu, chị họ) với những số phận không may 
mắn, cả cuộc đời tủi cực lận đận ở quê nhà đã để lại ấn tượng sâu sắc trong 
tình cảm của nhà văn. 
Mặc dù sinh ra trong một gia đình đông anh em như vậy, riêng ông 
được học hành chu đáo. Quê hương Nguyễn Minh Châu là mảnh đất cửa ngõ 
Xứ Nghệ, nằm ven biển miền Trung. Cũng như bao làng quê ở đây, làng Thơi 
là một vùng đất sơn thuỷ hữu tình nhưng cũng rất khắc nghiệt và dữ dội. Nằm 
kẹp giữa Lạch Thơi và Lạch Quèn, phía Tây là đồi núi ăn lan ra tận biển như 
Hòn Rồng, Hòn Kiến, làng Thơi là một vùng đất dữ dội mà hiền hoà, với 
thiên nhiên nước biếc non xanh. Nhưng Kẻ Thơi cũng là vùng đất của những 
cơn gió Lào bỏng rát về mùa hè và những trận cuồng phong chao đảo cả đất 
trời về mùa mưa lũ. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
10 
Có lẽ sự hùng vĩ và khắc nghiệt của thiên nhiên, đất đai đã in dấu ấn lên 
con người của làng quê ông. Nguyễn Minh Châu đã kể về con người làng 
Thơi của nhà văn như sau: “Quê tôi là Quỳnh Hải thôn Kẻ Thơi, Lạch Quèn. 
Dữ dội lắm. Dân Lạch Thơi nhiều nơi sợ chỉ có uống rượu và đánh nhau. 
Rượu say, ngủ ngay ở bãi biển. Mỗi đêm, những người đàn bà phải đi “ nhặt” 
chồng về. Cả làng làm nghề chài lưới, chẳng học hành gì cả. Tôi còn nhớ ông 
Điềm mỗi khi say rượu, cởi truồng nồng nỗng, quần vắt lên vai, đi vào trong 
xóm, lấy quần đánh chó. Gặp ai cũng chửi tuốt. Nhưng vớ phải một mụ bán 
bánh đa ở chợ làng còn dữ dội hơn. Mụ tuột váy ra, lấy váy đánh vào mặt. Lão 
Điềm phải thua. Có người uống rượu say, lấy mảnh thuỷ tinh (dùng để cạo tinh 
những thanh giang chẻ lạt) rạch ngang bụng, ruột xổ ra. Trẻ con chúng tôi lấy 
rổ đựng ruột cho ông ta, buộc lại rồi đưa đi viện. Ông ta chết. Có một chuyện 
cũng lạ: Một anh đi biển gặp bão, chết ngoài khơi xa, xác trôi về, cứ trôi quanh 
co theo con lạch Thơi mà vào tận cửa nhà m