Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam chuyển mình với nhiều thay đổi lớn 
lao trên mọi phương diện. Hòa c hung vào dòng chảy của xã hội, văn học Việt 
Nam có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc với nền văn học phương Tây hiện đại nên 
đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Những ảnh hưởng ấy đã nhanh chóng đưa 
văn học tiến gần và tiến nhanh hơn đến “quỹ đạo” của quá trình hiện đại hóa. 
Một nền văn học mới ra đời với những quan niệm thẩm mĩ mới đòi hỏi người 
nghệ sĩ phải có sự cách tân, để văn học phát triển phù hợp với thời đại. Trước 
những yêu cầu trên, nhiều nhóm phái văn học đã ra đời đáp ứng có hiệu quả
nhu cầu của tầng lớp độc giả mới. Trong đó Tự lực văn đoàn đã nhanh chóng 
vươn lên chiếm giữ vị trí “chủ soái” trên văn đàn trong suốt những năm 30 
của thế kỉ XX: “Tự lực văn đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm 
quan trọng nhất và nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại” [24, 550 
- 551].
Với khoảng 10 năm hoạt động của mình, Tự lực văn đoàn đã có nhiều 
đóng góp cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, đặc biệt là ở thể loại 
tiểu thuyết. Trong sự tồn tại phát triển của nhóm, chúng ta không thể không 
nhắc đến hai cây bút trụ cột Nhất Linh và Khái Hưng. Bằng tài năng nghệ 
thuật và sức sáng tạo không mệt mỏi, hai ông đã có những đóng góp quan 
trọng cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX , góp phần 
làm rạng danh tên tuổi của nhóm.
Là những cây bút tài năng, tâm huyết với cuộc sống và nghệ thuật,
Nhất Linh, Khái Hưng không chỉ để lại một số lượng tác phẩm tương đối lớn 
mà những sáng tác của hai ông có nhiều ảnh hưởng tới tư tưởng của tầng lớp 
thanh niên trí thức Việt Nam những năm 30 và tạo đượ c sự ngưỡng mộ đối 
với độc giả yêu mến văn học.
Cả Nhất Linh và Khái Hưng đều sáng tác ở nhiều thể loại, song có lẽ 
thành công nhất vẫn là thể loại tiểu thuyết, trước hết là tiểu thuyết luận đề, và sau 
đó là tiểu thuyết tâm lý. Những tác phẩm của Tự lực văn đoàn nói chung và của 
Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng, giờ đây đã quá quen thuộc với độc giả yêu văn 
học và giới nghiên cứu phê bình. Vị trí của hai ông ngày càng được khẳng định 
vững chắc. Số lượng lớn các bài viết và những công trình nghiên cứu về sự 
nghiệp văn chương của hai ông là minh chứng hùng hồn khẳng định điều đó.
Những thành công trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái 
Hưng đã góp phần quan trọng dần từng bước tạo ra diện mạo mới cho văn học
Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của 
Khái Hưng là hai cuốn tiểu thuyết luận đề vừa là mở đầu, vừa là có giá trị 
nhất, góp tiếng nói tố cáo, phê phán mạnh mẽ những hủ tục lạc hậu và bênh 
vực quyền được hưởng hạnh phúc cá nhân của con người. Trong tác phẩm của 
mình, hai nhà văn đặc biệt quan tâm tới thân phận đáng thương của người phụ 
nữ trong chế độ đại gia đình phong kiến. Hai ông đã xây dựng khá thành công 
hình tượng những người con gái có cá tính mạnh mẽ, dám đấu tranh chống lại 
nền giáo lý lạc hậu đã tồn tại, ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân Việt Nam 
hàng ngàn năm qua. Đó là những cô gái tân thời có học hành, được tiếp xúc 
với văn minh phương Tây nên thấu hiểu sâu sắc những bất công trong xã hội 
mà bản thân họ là những nạn nhân phải gánh chịu. Vì thế khát vọng hạnh
phúc, khát vọng tình yêu ở những người phụ nữ này mạnh mẽ hơn ai hết, và 
hành động chống đối lại xã hội ấy là điều hoàn toàn hợp với quy luật khách 
quan của tiến bộ xã hội. Tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng chính là 
những tiên báo cho sự phát triển tất yếu của xã hội. Đây chính là đóng góp 
của Tự lực văn đoàn đối với tiến trình hiện đại văn học dân tộc. Đến với tiểu 
thuyết của Tự lực văn đoàn, chúng tôi muốn góp một tiếng nói khẳng định vai 
trò của văn đoàn này trong lĩnh vực đổi mới trên cả phương diện : nội dung và 
nghệ thuật tiểu thuyết.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 121 trang
121 trang | 
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1974 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đóng góp của tự lực văn đoàn qua hai tiểu thuyết đoạn tuyệt của nhất linh và nửa chừng xuân của Khái Hưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 
===========O0O=========== 
LẠI THỊ THÚY VÂN 
ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN 
QUA HAI TIỂU THUYẾT ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH 
VÀ NỬA CHỪNG XUÂN CỦA KHÁI HƯNG 
 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN 
Thái Nguyên, năm 2009 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 
===========O0O=========== 
LẠI THỊ THÚY VÂN 
ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN 
QUA HAI TIỂU THUYẾT ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH 
VÀ NỬA CHỪNG XUÂN CỦA KHÁI HƯNG 
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam 
Mã số: 60.22.34 
 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN 
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGÔ VĂN THƯ 
Thái Nguyên, năm 2009 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
MỤC LỤC 
Trang 
 më ®Çu .............................................................................................................. 1 
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1 
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 3 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: .....................................................10 
3.1. Đối tượng ......................................................................................10 
3.2. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................11 
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................11 
5. Đóng góp của luận văn ........................................................................11 
6. Cấu trúc luận văn ................................................................................12 
 NỘI DUNG ......................................................................................................... 13 
Chương 1: ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ĐỐI VỚI QUÁ 
TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM. ............................................ 13 
1.1. Cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội cho sự ra đời của Tự lực văn 
đoàn ..........................................................................................................13 
1.1.1. Những cơ sở lịch sử - văn hóa- xã hội của công cuộc hiện 
đại hóa nền văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. ....................13 
1.1.2. Sự ra đời của Tự lực văn đoàn ................................................17 
1.2. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn ........................................20 
1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết, tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết luận 
đề của Tự lực văn đoàn......................................................................20 
1.2.2. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái Hưng ...................24 
1.3. Vai trò của Tự lực văn đoàn đối với quá trình hiện đại hóa văn 
học dân tộc ...............................................................................................30 
1.3.1. Cổ vũ cho phong trào thơ mới ..................................................32 
1.3.2. Hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết .............................................33 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
Chương 2: BƯỚC CHUYỂN TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ 
CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NHẤT LINH VÀ KHÁI HƯNG ...... 36 
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực 
văn đoàn ...................................................................................................36 
2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong nghiên cứu văn 
học .....................................................................................................36 
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực 
văn đoàn ............................................................................................39 
2.2. Con người theo mô hình đạo đức lễ giáo phong kiến ......................42 
2.2.1. Mâu thuẫn giữa con người cá nhân với đại gia đình phong 
kiến ....................................................................................................42 
2.2.2. Nhân vật đại diện cho nền luân lý phong kiến cũ ....................46 
2.3. Con người theo mô hình phương Tây hiện đại ...............................53 
2. 3.1. Nhân vật trí thức Tây học .......................................................53 
2.3.2. Nhân vật phụ nữ đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân ................60 
Chương 3: NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG ĐOẠN TUYỆT 
VÀ NỬA CHỪNG XUÂN .................................................................................... 72 
3.1. Hiện đại hóa trong cốt truyện và kết cấu ........................................72 
3.1.1. Hiện đại hóa trong cốt truyện: .................................................73 
3.1.2. Hiện đại hóa trong kết cấu .......................................................78 
3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ................................................84 
3.2.1. Miêu tả tâm lý nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại ......................86 
3.2.2. Miêu tả tâm lý qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm: ....................92 
3.3. Hiện đại hóa trong ngôn ngữ và giọng điệu ....................................96 
3.3.1. Hiện đại hóa trong ngôn ngữ ...................................................96 
3.3.2. Hiện đại hóa trong giọng điệu ............................................... 102 
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 109 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 113 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
1 
 MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam chuyển mình với nhiều thay đổi lớn 
lao trên mọi phương diện. Hòa chung vào dòng chảy của xã hội, văn học Việt 
Nam có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc với nền văn học phương Tây hiện đại nên 
đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Những ảnh hưởng ấy đã nhanh chóng đưa 
văn học tiến gần và tiến nhanh hơn đến “quỹ đạo” của quá trình hiện đại hóa. 
Một nền văn học mới ra đời với những quan niệm thẩm mĩ mới đòi hỏi người 
nghệ sĩ phải có sự cách tân, để văn học phát triển phù hợp với thời đại. Trước 
những yêu cầu trên, nhiều nhóm phái văn học đã ra đời đáp ứng có hiệu quả 
nhu cầu của tầng lớp độc giả mới. Trong đó Tự lực văn đoàn đã nhanh chóng 
vươn lên chiếm giữ vị trí “chủ soái” trên văn đàn trong suốt những năm 30 
của thế kỉ XX: “Tự lực văn đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm 
quan trọng nhất và nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại” [24, 550 
- 551]. 
Với khoảng 10 năm hoạt động của mình, Tự lực văn đoàn đã có nhiều 
đóng góp cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, đặc biệt là ở thể loại 
tiểu thuyết. Trong sự tồn tại phát triển của nhóm, chúng ta không thể không 
nhắc đến hai cây bút trụ cột Nhất Linh và Khái Hưng. Bằng tài năng nghệ 
thuật và sức sáng tạo không mệt mỏi, hai ông đã có những đóng góp quan 
trọng cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, góp phần 
làm rạng danh tên tuổi của nhóm. 
 Là những cây bút tài năng, tâm huyết với cuộc sống và nghệ thuật, 
Nhất Linh, Khái Hưng không chỉ để lại một số lượng tác phẩm tương đối lớn 
mà những sáng tác của hai ông có nhiều ảnh hưởng tới tư tưởng của tầng lớp 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
2 
thanh niên trí thức Việt Nam những năm 30 và tạo được sự ngưỡng mộ đối 
với độc giả yêu mến văn học. 
Cả Nhất Linh và Khái Hưng đều sáng tác ở nhiều thể loại, song có lẽ 
thành công nhất vẫn là thể loại tiểu thuyết, trước hết là tiểu thuyết luận đề, và sau 
đó là tiểu thuyết tâm lý. Những tác phẩm của Tự lực văn đoàn nói chung và của 
Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng, giờ đây đã quá quen thuộc với độc giả yêu văn 
học và giới nghiên cứu phê bình. Vị trí của hai ông ngày càng được khẳng định 
vững chắc. Số lượng lớn các bài viết và những công trình nghiên cứu về sự 
nghiệp văn chương của hai ông là minh chứng hùng hồn khẳng định điều đó. 
Những thành công trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái 
Hưng đã góp phần quan trọng dần từng bước tạo ra diện mạo mới cho văn học 
Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của 
Khái Hưng là hai cuốn tiểu thuyết luận đề vừa là mở đầu, vừa là có giá trị 
nhất, góp tiếng nói tố cáo, phê phán mạnh mẽ những hủ tục lạc hậu và bênh 
vực quyền được hưởng hạnh phúc cá nhân của con người. Trong tác phẩm của 
mình, hai nhà văn đặc biệt quan tâm tới thân phận đáng thương của người phụ 
nữ trong chế độ đại gia đình phong kiến. Hai ông đã xây dựng khá thành công 
hình tượng những người con gái có cá tính mạnh mẽ, dám đấu tranh chống lại 
nền giáo lý lạc hậu đã tồn tại, ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân Việt Nam 
hàng ngàn năm qua. Đó là những cô gái tân thời có học hành, được tiếp xúc 
với văn minh phương Tây nên thấu hiểu sâu sắc những bất công trong xã hội 
mà bản thân họ là những nạn nhân phải gánh chịu. Vì thế khát vọng hạnh 
phúc, khát vọng tình yêu ở những người phụ nữ này mạnh mẽ hơn ai hết, và 
hành động chống đối lại xã hội ấy là điều hoàn toàn hợp với quy luật khách 
quan của tiến bộ xã hội. Tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng chính là 
những tiên báo cho sự phát triển tất yếu của xã hội. Đây chính là đóng góp 
của Tự lực văn đoàn đối với tiến trình hiện đại văn học dân tộc. Đến với tiểu 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
3 
thuyết của Tự lực văn đoàn, chúng tôi muốn góp một tiếng nói khẳng định vai 
trò của văn đoàn này trong lĩnh vực đổi mới trên cả phương diện: nội dung và 
nghệ thuật tiểu thuyết. 
2. Lịch sử vấn đề 
Nói về các hiện tượng văn học, không phải bất cứ nhà văn hay tác phẩm 
nào cũng may mắn trở thành đối tượng được giới phê bình quan tâm nghiên cứu. 
Ngay từ lúc mới xuất hiện trên văn đàn Việt Nam, Tự lực văn đoàn đã thu hút 
được sự chú ý của độc giả yêu văn chương. Trong một khoảng thời gian không 
phải dài hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, Tự lực văn đoàn, nhất là 
hai tác giả Nhất Linh và Khái Hưng đã để lại cho nền văn học Việt Nam những 
tác phẩm có giá trị trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. 
Tuy nhiên, đây cũng là hiện tượng gây nhiều tranh cãi trong lịch sử văn 
học nước nhà. Công việc nghiên cứu, đánh giá các tác phẩm của Nhất Linh, 
Khái Hưng nói riêng và Tự lực văn đoàn nói chung khá phức tạp. Mỗi một 
thời kỳ lại có những quan điểm trái ngược nhau. Thậm chí sự bất đồng trong ý 
kiến đánh giá còn xảy ra ngay trong một thời kỳ giữa hai miền Nam - Bắc. 
Hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của Khái 
Hưng là hai cuốn tiểu thuyết đã mang lại tên tuổi cho hai cây bút trụ cột của 
nhóm. Song đây cũng là hai cuốn tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi và làm tốn 
giấy mực của giới nghiên cứu phê bình nhất. 
Chúng tôi tạm chia những ý kiến đánh giá về Tự lực văn đoàn và hai 
tác giả trên theo 3 giai đoạn: 
Giai đoạn thứ nhất (trước 1945): 
Đây là giai đoạn mà Tự lực văn đoàn đang hoạt động và thu hút được 
nhiều sự chú ý của độc giả. Trong đó, Nhất Linh và Khái Hưng là những tác 
giả tiêu biểu. Đây chính là thời kỳ sáng tác sung mãn nhất của hai cây bút 
này. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
4 
Có nhiều bài phê bình của các tác giả như: Trương Tửu, Mộng Sơn, Vũ 
Ngọc Phan, Trần Thanh Mại… được đăng trên các báo: Loa, Sông Hương, 
Ngày nay, Thời thế, Hà Nội Tân văn, Phụ nữ Thời đàm… Bên cạnh đó còn 
có các công trình nghiên cứu khác đều có mối quan tâm tới tiểu thuyết của 
Nhất Linh và Khái Hưng. 
Trong bài viết “Dưới mắt tôi”, nhà nghiên cứu Trương Chính đã có 
đánh giá khá xác đáng về Đoạn tuyệt, Lạnh lùng của Nhất Linh và Hồn bướm 
mơ tiên, Nửa chừng xuân của Khái Hưng. Ông viết: “Đoạn tuyệt là một kiệt 
tác trong văn học hiện đại Việt Nam. Vì Đoạn tuyệt không chỉ có giá trị xã 
hội. Nó còn có một giá trị tâm lý không ai chối cãi được” [24, 629]. 
Năm 1941, Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam Văn học sử yếu đã 
nhận xét các tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng như sau: “Hầu hết các tác 
phẩm của ông (Nhất Linh) là những luận đề tiểu thuyết” [18, 454]. Khi nhận 
xét về Khái Hưng, ông viết: “Tuy vẫn có khuynh hướng xã hội nhưng lại 
thiên về mặt lý tưởng và có thi vị riêng… Khái Hưng có một cách tả người và 
tả cảnh xác thực mà có một vẻ nhẹ nhàng thanh tú khiến cho người đọc thấy 
cảm” [18. 455]. 
Năm 1942, trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ ngọc Phan đã nhận ra sự 
tiến bộ trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng: “Nếu đọc tiểu thuyết 
của Nhất Linh từ Nho phong cho tới những tác phẩm gần đây nhất của ông, 
người ta thấy tiểu thuyết của ông biến đổi rất mau. Ông viết từ tiểu thuyết ái 
tình, tiểu thuyết tình cảm, qua những tiểu thuyết luận đề, tiến đến tiểu thuyết 
tâm lý” [55, 324]. Với Khái Hưng, ông nhận xét: “Nhưng dù ở tiểu thuyết lý 
tưởng, tiểu thuyết phong tục hay tiểu thuyết tâm lý, cái đặc sắc… là sự xét 
nhận rất đúng về tâm hồn nam nữ thanh niên Việt Nam” [ 55, 780]. 
Tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng trong thời kỳ này được đánh 
giá cao về mặt nội dung tư tưởng: chống chế độ đại gia đình phong kiến, giải 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
5 
phóng cá nhân, giải phóng người phụ nữ thoát khỏi cánh cửa ngục thất của 
chế độ đại gia đình phong kiến. Người ta xem Đoạn tuyệt của Nhất Linh như 
một thứ “vũ khí” bắn thẳng vào thành trì kiên cố và bảo thủ của xã hội phong 
kiến. Trên báo Loa (1935), Trương Tửu nhận xét: “Đoạn tuyệt là một vòng 
hoa tráng lệ đặt lên đầu của chủ nghĩa cá nhân. Tác giả đàng hoàng công nhận 
sự tiến bộ và hăng hái tin tưởng ở tương lai. Ông giúp cho bạn trẻ vững lòng 
phấn đấu nghĩa là vui mà sống”. Trương Chính còn cho rằng: “Đoạn tuyệt 
đánh dấu một cách rõ ràng thời kỳ thay đổi tiến hóa của xã hội An Nam. Nó 
công bố sự bất hợp thời của một nền luân lý khắc khổ, eo hẹp, đã giết chết 
bao nhiêu hy vọng, đè bẹp bao nhiêu lực lượng đáng kể, giam hãm bao nhiêu 
chí khí bồng bột đương ao ước sống một đời đầy đủ, một đời mãnh liệt cường 
tráng” [23, 293]. Còn “Nửa chừng xuân là cuốn truyện ghi dấu sự phấn đấu 
giữa cá nhân và chế độ ấy. Tác giả biện luận cho quan hệ nhân sinh mới và 
công bố sự bất hợp thời của những tập quán do nền luân lý cổ truyền tạo ra” 
[14, 313]. 
Nhìn một cách tổng quát, giới phê bình trước 1945 đánh giá cao Tự lực 
văn đoàn. Nội dung tư tưởng với chủ đề chống lễ giáo phong kiến và giải 
phóng cá nhân được chú ý quan tâm. Tuy nhiên, các công trình này còn rất 
chung chung và có phần giản đơn. Đó mới chỉ là những bước gợi mở chứ 
chưa đi sâu khám phá những đóng góp về phương diện nghệ thuật. 
Giai đoạn thứ 2 (từ 1946 – 1986): 
Do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, nên việc đánh giá một số hiện 
tượng văn học trong đó có Tự lực văn đoàn ở giai đoạn này bị tạm gác lại. 
Thời kỳ này, người ta nhìn nhận và đánh giá văn học dưới góc nhìn chính trị, 
các tiêu chí đánh giá một tác phẩm văn học đều xuất phát từ lập trường và 
quan điểm giai cấp. Tác phẩm của Tự lực văn đoàn giai đoạn này bị đánh giá 
chưa thỏa đáng, thậm chí còn có phần khắt khe. Tuy nhiên, cũng có những ý 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
6 
kiến khẳng định những đóng góp của Tự lực văn đoàn. Đồng chí Trường 
Chinh trong bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam được nêu trong 
Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948) vừa nêu những hạn chế của 
văn đoàn này nhưng đồng thời cũng đã khẳng định: “Dẫu sao, hoạt động của 
nhóm Tự lực văn đoàn đã đẩy mạnh phong trào văn nghệ nước ta tiến tới”. 
Có một điểm rất đáng lưu ý là sự khác nhau trong quan điểm và thái độ 
đánh giá về Tự Lực văn đoàn ở hai miền Nam - Bắc. 
ở miền Bắc, không kể các bài viết, có các công trình nghiên cứu của 
nhóm Lê Quý Đôn với Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957); Văn học 
Việt Nam 1930 – 1945 (1961) của Bạch Năng Thi, Phan Cự Đệ; Sơ thảo văn 
học Việt Nam (1964) của Viện Văn học; Tiểu thuyết Việt Nam của Phan Cự 
Đệ, tập 1 (1974)… đều nhắc tới Tự lực văn đoàn và tiểu thuyết của Nhất 
Linh, Khái Hưng. Nhưng nhìn chung, quan điểm của các công trình này tỏ ra 
hết sức khắt khe đối với đóng góp của Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện 
đại hóa văn học Việt Nam. Nguyên nhân là do các nhà phê bình đã căn cứ vào 
những tiêu chí chính trị của văn học cách mạng và lấy đó làm thước đo các 
giá trị cho văn học lãng mạn mà quên mất rằng, văn học lãng mạn có những 
đặc trưng riêng của nó. Thêm vào đó các nhà phê bình lại quá coi trọng việc 
phản ánh hiện thực trong tác phẩm. Họ cho rằng, văn học là phải phản ánh 
được đời sống cực khổ của nhân dân do bị địa chủ, thực dân áp bức bóc lột 
mà quên đi đời sống nội tâm với bao dằn vặt, day dứt của thế hệ thanh niên trí 
thức cũng là một vấn đề đáng được quan tâm. Chính vì vậy mà Tự lực văn 
đoàn bị đánh giá là xa rời thực tiễn. 
Có thể nói, những nhận định về Tự lực văn đoàn còn dè dặt, mới chỉ 
khen ngợi một chút về nội dung chống phong kiến và phương diện nghệ thuật 
“Về phương diện văn học sử, công lao chủ yếu của Nhất Linh và Khái Hưng 
là đã có những đóng góp trong việc xây dựng một nền tiểu thuyết hiện đại” 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
7 
[10, 87]. Còn chủ yếu là phê phán khá mạnh mẽ các tiểu thuyết của Nhất Linh 
và Khái Hưng. 
Trái ngược với miền Bắc, ở miền Nam, Tự lực văn đoàn lại được đề 
cao, chú trọng quá mức. Nhiều tác phẩm của Tự lực văn đoàn đã được in lại 
và phổ biến rộng rãi. Bên cạnh các bài viết đăng trên các tạp chí, còn có các 
công trình văn học sử được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Có nhiều 
công trình khảo cứu và nghiên cứu về Tự lực văn đoàn như: Khái Hưng, 
người thứ nhất muốn làm nguyên soái của văn chương sáng giá của Hồ Hữu 
Tường (1964); Nhất Linh, văn tài tiêu biểu của Tự lực văn đoàn của Phạm 
Thế Ngũ (1965); Nhất Linh hay khuynh hướng lãng mạn phản kháng của Bùi 
Xuân Bào (1972)… Nhiều công trình văn học sử được dùng trong nhà trường 
như: Bình giảng về Tự lực văn đoàn (1958) của Nguyễn Văn Xung; Việt Nam 
văn học sử giản ước tân biên (1960) của Phạm Thế Ngũ; Tự lực văn đoàn 
(1960) của Doãn Quốc Sỹ; Văn học thế hệ 1932 (1972) của Thanh Lãng; Tiểu 
thuyết Việt Nam hiện đại (1972) của Bùi Xuân Bào; Lược sử văn học Việt 
Nam - Nhà văn tiền chiến (1974) của Thế Phong. 
Đặc biệt, sau khi Nhất Linh qua đời, xuất hiện một loạt các bài viết 
tưởng nhớ về ông của các tác giả Đặng Tiến, Tường Hùng, Doãn Quốc Sỹ, 
Trương Bảo Sơn, Thế Uyên, Nguyễn Văn Trung… 
Nhìn chung, các ý kiến đánh giá về Tự lực văn đoàn và hai nhà văn 
Nhất Linh, Khái Hưng không có gì mới so với thời kỳ trước 1945. Chẳng hạn 
Thế Phong đã khen Khái Hưng: “Đi sâu vào tâm lý với một kỹ thuật viết 
trưởng thành”. Hay Nguyễn Văn Xung trong Bình giảng về Tự lực văn đoàn 
viết: “Không phải tả cảnh như Khái Hưng nhưng là để móc vào đấy những 
biến chuyển trong tình cảm nhân vật” [71, 32]. Một vài ý kiến ghi nhận sự 
đóng góp của Nhất Linh, Khái Hưng nhưng còn mờ nhạt. Bên cạnh đó, xu 
hướng đề cao vẫn là cơ bản. Như vậy, ở thời kỳ này, các ý kiến vẫn tập trung 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
8 
đề cao tiểu thuyết của hai ông. Sự đối cực giữa các ý kiến không làm rõ được 
những đóng góp cũng như hạn chế của Tự lực văn đoàn. Đôi khi sự đóng góp 
cũng được ghi nhận song còn rất mờ nhạt. Trong khi đó, các giá trị đích thực 
của văn chương lại không hề được đề cập tới. 
Giai đoạn thứ ba (từ sau 1986): 
Công cuộc đổi mới đất nước đã thực sự mở ra một kỷ nguyên mới cho 
sự phát triển của văn học nói riêng và văn hóa nghệ thuật nói chung trong 
phạm vi cả nước. Với tư duy nghệ thuật đổi mới, các nhà nghệ sĩ đã được “cởi 
trói” và thoát khỏi sự nhìn nhận đánh giá nghệ thuật theo quan điểm chính trị. 
Những sự “hàm oan” của văn học trong quá khứ đã được các nhà khoa học 
nhìn nhận lại một cách khách quan hơn, trả lại cho văn học những giá trị đích 
thực mà nó vốn có. 
Hầu hết tác phẩm của Nhất Linh