Làng nghề là một nhân tố đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là nơi chứa đựng và gìn giữ những tinh hoa văn hoá của dân tộc. Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc phục hồi và phát triển các làng nghề. Sự phát triển của các làng nghề có ý nghĩa hết sức to lớn và được xem là giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Tỉnh Hà Tây từ lâu đã được coi là “đất trăm nghề ” và ngày nay số làng nghề trong tỉnh vẫn không ngừng tăng lên, đưa tỉnh trở thành một trong những địa phương có nhiều làng nghề nhất trong cả nước. Toàn tỉnh có 972 làng có nghề, trong đó có 120 làng được công nhận đạt tiêu chuẩn. Nhiều làng nghề phát triển rất mạnh, xuất hiện nhu cầu vốn lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có những làng nghề đang dần bị mai một, cần vốn để khôi phục lại. Do đó, có thể nói đây là một thị trường đầy tiềm năng để các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh có thể mở rộng hoạt động tín dụng.
Qua thời gian thực tập tốt nghiệp tại phòng tín dụng Ngân hàng Công thương Hà Tây, được tìm hiểu về thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng đối với làng nghề và đặc điểm của các làng nghề trong tỉnh, em đã hoàn thành luận văn của mình với đề tài: “ Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với làng nghề tại Ngân hàng Công thương Hà Tây” và hy vọng luận văn sẽ góp phần tìm ra giải pháp để Ngân hàng mở rộng nghiệp vụ cho vay, đáp ứng nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh - hiện đang là vấn đề bức xúc với các làng nghề của tỉnh. Đồng thời em cũng mạnh dạn nêu lên một số kiến nghị nhằm tạo thuận lợi cho việc mở rộng tín dụng của Ngân hàng đối với các làng nghề để góp phần thúc đẩy sự phát triển của làng nghề ở Hà Tây nói riêng và trong cả nước nói chung.
Luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Tín dụng Ngân hàng thương mại và quá trình phát triển làng nghề.
Chương 2: Thực trạng tín dụng đối với làng nghề tại Ngân hàng Công thương Hà Tây.
Chương 3: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với làng nghề tại Ngân hàng Công thương Hà Tây.
Với trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô để có được nhận thức đầy đủ hơn về vấn đề này.
76 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1110 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với làng nghề tại Ngân hàng Công thương Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Làng nghề là một nhân tố đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là nơi chứa đựng và gìn giữ những tinh hoa văn hoá của dân tộc. Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc phục hồi và phát triển các làng nghề. Sự phát triển của các làng nghề có ý nghĩa hết sức to lớn và được xem là giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Tỉnh Hà Tây từ lâu đã được coi là “đất trăm nghề ” và ngày nay số làng nghề trong tỉnh vẫn không ngừng tăng lên, đưa tỉnh trở thành một trong những địa phương có nhiều làng nghề nhất trong cả nước. Toàn tỉnh có 972 làng có nghề, trong đó có 120 làng được công nhận đạt tiêu chuẩn. Nhiều làng nghề phát triển rất mạnh, xuất hiện nhu cầu vốn lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có những làng nghề đang dần bị mai một, cần vốn để khôi phục lại. Do đó, có thể nói đây là một thị trường đầy tiềm năng để các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh có thể mở rộng hoạt động tín dụng.
Qua thời gian thực tập tốt nghiệp tại phòng tín dụng Ngân hàng Công thương Hà Tây, được tìm hiểu về thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng đối với làng nghề và đặc điểm của các làng nghề trong tỉnh, em đã hoàn thành luận văn của mình với đề tài: “ Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với làng nghề tại Ngân hàng Công thương Hà Tây” và hy vọng luận văn sẽ góp phần tìm ra giải pháp để Ngân hàng mở rộng nghiệp vụ cho vay, đáp ứng nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh - hiện đang là vấn đề bức xúc với các làng nghề của tỉnh. Đồng thời em cũng mạnh dạn nêu lên một số kiến nghị nhằm tạo thuận lợi cho việc mở rộng tín dụng của Ngân hàng đối với các làng nghề để góp phần thúc đẩy sự phát triển của làng nghề ở Hà Tây nói riêng và trong cả nước nói chung.
Luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Tín dụng Ngân hàng thương mại và quá trình phát triển làng nghề.
Chương 2: Thực trạng tín dụng đối với làng nghề tại Ngân hàng Công thương Hà Tây.
Chương 3: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với làng nghề tại Ngân hàng Công thương Hà Tây.
Với trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô để có được nhận thức đầy đủ hơn về vấn đề này.
CHƯƠNG I
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC LÀNG NGHỀ
1. Quan niệm về làng nghề
Trải qua quá trình lịch sử lâu đời, nhân dân Việt Nam không chỉ xây dựng và phát triển được nền văn minh lúa nước còn tồn tại đến ngày nay mà ở các làng xã còn hình thành và phát triển được nhiều ngành nghề ngoài nông nghiệp nhưng có quan hệ mật thiết với xã hội nông thôn. Trải qua hàng nghìn năm, đến nay những ngành nghề, những sản phẩm thủ công mang tính truyền thống từ cấu tạo đơn giản đến kỹ thuật tinh xảo không những vẫn tồn tại mà còn đang được phục hồi và ngày càng phát triển. Có thể nói những sản phẩm này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế nông thôn. Chính vì vậy mà ngày nay các làng nghề mới đang xuất hiện ngày càng nhiều.
Mặc dù đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử nhưng cho đến nay nước ta vẫn chưa có một văn bản nào công bố một cách chính thức khái niệm về làng nghề. Tuy nhiên ta có thể hiểu làng nghề là một thuật ngữ bao gồm hai yếu tố cấu thành là “làng” và “nghề”. Theo những nghiên cứu về làng Việt cổ ở Bắc Bộ thì: làng là tế bào sống của xã hội Việt, là sản phẩm tự nhiên tiết ra từ quá trình định cư và cộng cư của người Việt trồng trọt. Đã có thời làng được coi là đơn vị hành chính quốc gia của một nước. Sự hình thành của làng thường bắt đầu từ việc một bộ phận cư dân của một tộc người hay một dòng họ nào đó đến chiếm lĩnh và định cư đầu tiên trên một vùng đất. Ban đầu chỉ có một dòng họ, sau đó có thêm những dòng họ khác đến cư trú và tạo thành làng với đầy đủ các đặc điểm riêng có của nó. Giữa các làng thường có ranh giới rõ ràng và người dân trong một làng có rất nhiều những mối quan hệ kinh tế - nhân văn phong phú, phức tạp như: quan hệ huyết thống, quan hệ láng giềng, nghề nghiệp... Những mối quan hệ này đã gắn kết một cách chặt chẽ những người dân trong làng với nhau và nó chi phối mạnh mẽ những hoạt động sản xuất diễn ra trong làng.
Sự hình thành một nghề ở làng theo quy luật là một hộ gia đình biết nghề sẽ truyền cho con cháu, họ hàng trong dòng tộc theo phương thức truyền nghề trực tiếp. Hoạt động này nếu mang lại lợi ích kinh tế cao thì dần dần các hộ khác trong làng sẽ tìm cách học hỏi thông qua các mối quan hệ và khi số hộ trong làng làm nghề ngày một nhiều thì nó sẽ trở thành mối quan tâm chung của cả làng. Một đặc trưng nổi bật của các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp là nó được kết tinh từ sự tài hoa, khéo léo và tâm hồn của người thợ, đồng thời nó mang trong mình những bí quyết riêng để tạo nên sự khác biệt, đặc trưng riêng có khác hẳn những sản phẩm cùng loại. Do đó, để có thể gìn giữ và phát triển nghề của làng thì vấn đề sống còn là phải bảo vệ được bí quyết nghề và từ đó những tục lệ khắt khe về việc cấm truyền nghề đi nơi khác xuất hiện.
Như vậy, có thể quan niệm làng nghề là làng ở nông thôn có một hoặc một số nghề thủ công nghiệp tách hẳn ra khỏi nông nghiệp và tồn tại độc lập. Về mặt định lượng có thể hiểu làng nghề là làng ở nông thôn có từ 35% - 40% số hộ trở lên chuyên làm một hoặc một số nghề thủ công nghiệp mà các hộ có thể sinh sống chính bằng nguồn thu nhập từ nghề đó và giá trị sản lượng của nghề chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng của địa phương. Vậy làng nghề là làng ở nông thôn có các ngành nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và thu nhập so với nghề nông.
2. Tiêu chuẩn làng nghề
Từ những năm 1990 - 1991 trở lại đây, việc khôi phục và phát triển những ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề đã được đẩy mạnh. Nhằm vận động nhân dân xây dựng, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống, cổ truyền, làng nghề mới để góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, đồng thời tăng cường công tác quản lý nhà nước về công nghiệp - thủ công nghiệp trên địa bàn, tỉnh Hà Tây đã ban hành tiêu chuẩn làng nghề như sau:
- Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và mọi quy định hợp pháp của chính quyền địa phương.
- Số hộ hoặc lao động làm nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở làng đạt từ 50% trở lên so với tổng số hộ hoặc lao động của làng.
- Giá trị sản xuất và thu nhập từ công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở làng chiếm tỷ trọng trên 50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm. Đảm bảo vệ sinh môi trường theo các quy định hiện hành.
- Có hình thức tổ chức phù hợp, chịu sự quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương, gắn với các mục tiêu kinh tế - xã hội và làng văn hoá của địa phương.
Tên nghề của làng phải được gắn với tên làng: nếu là làng nghề truyền thống, cổ truyền còn tồn tại và phát triển thì lấy nghề đó đặt tên cho nghề của làng. Nếu làng có nhiều nghề phát triển, sản phẩm nghề nào nổi tiếng nhất thì nên lấy nghề đó đặt tên cho nghề của làng, hoặc trong làng có nhiều nghề không phải là nghề truyền thống hay chưa có sản phẩm nghề nào nổi tiếng thì tên nghề của làng nên dựa vào nghề nào có giá trị sản xuất và thu nhập cao nhất để đặt tên nghề gắn với tên làng. Việc đặt tên nghề của làng do nhân dân bàn bạc thống nhất và chính quyền địa phương xem xét đề nghị .
3. Phân loại làng nghề
Người ta thường phân loại làng nghề theo những tiêu thức sau:
Căn cứ vào số nghề của một làng, làng nghề được chia thành làng một nghề và làng nhiều nghề.
- Làng một nghề là những làng ngoài nghề nông ra chỉ làm thêm một nghề thủ công duy nhất, chiếm ưu thế tuyệt đối như: Vạn Phúc, Bát Tràng...
- Làng nhiều nghề là những làng ngoài nghề nông ra còn làm thêm một số nghề thủ công khác như Đồng Kỵ, La Phù...
Căn cứ vào thời gian hình thành, làng nghề được chia thành làng nghề truyền thống và làng nghề mới.
- Làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện lâu đời trong lịch sử và tồn tại đến ngày nay.
- Làng nghề mới là những làng mới xuất hiện trong thời gian gần đây do nhu cầu tiêu dùng các loại hàng hoá đó xuất hiện.
4. Sự cần thiết của việc phát triển các làng nghề
Cùng với việc xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nước ta đang từng bước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, trong đó đặc biệt chú ý đến khu vực nông thôn. Trải qua quá trình tồn tại và phát triển, các làng nghề đã chứng tỏ được vai trò vô cùng quan trọng của mình trong việc thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam. Như vậy phát triển các làng nghề là một trong những chiến lược quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn vì không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, nó còn góp phần ổn định đời sống chính trị - xã hội cho bà con nông dân.
* Về mặt kinh tế
Làng nghề giúp phát triển kinh tế của địa phương, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, góp phần xây dựng nông thôn mới.
Thực tế cho thấy việc phát triển các ngành nghề đã tạo ra một nguồn thu nhập cho các hộ gia đình và lao động làm nghề cao hơn các hộ thuần nông. Theo số liệu điều tra của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thu nhập bình quân hàng tháng của một lao động hộ chuyên ngành nghề là 240.000 đồng đến 250.000 đồng và đối với hộ kiêm nghiệp là 180.000 đồng đến 190.000 đồng, cao gấp 1,5 lần so với hộ thuần nông. Thu nhập bình quân của một lao động ở cơ sở chuyên ngành nghề (doanh nghiệp, tổ hợp...) là trên 400.000 đồng / tháng, gấp 3 - 4 lần lao động hộ thuần nông. Tỷ trọng thu nhập từ ngành nghề của các hộ ngành nghề kiêm nông nghiệp là khoảng 70% - 75% tổng thu nhập, và của các hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề là 40%. Có những làng nghề mà thu nhập bình quân từ sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp lên tới trên 10 triệu đồng / người / năm như: làng nghề dệt kim - bánh kẹo La Phù - Hà Tây (12,58 triệu đồng), làng nghề chế biến nông sản Minh Khai - Hà Tây (10,3 triệu đồng)... Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp hàng năm đã sản xuất một khối lượng hàng hoá lớn đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và còn xuất khẩu được ra thị trường quốc tế. Các sản phẩm xuất khẩu đã mang lại một nguồn thu lớn cho các hộ sản xuất phải kể đến như: lụa, thổ cẩm, gốm sứ, các sản phẩm đá chạm khắc...
Phát triển các ngành nghề còn tạo ra nguồn giá trị sản lượng cao cho các địa phương có làng nghề. Ở Hà Tây, các làng nghề như La Phù, Dương Liễu, Lưu Xá, Đức Giang, Minh Khai, Chuyên Mỹ, Phương Trung, Hoà Xá, doanh thu từ nghề chế biến nông sản, thực phẩm chiếm 75% - 85% tổng giá trị sản lượng của xã. Ở Bắc Ninh, các làng nghề chiếm 70%-90% tổng giá trị sản lượng của địa phương. Ở Nam Định, các làng nghề như Tông Xá, Vân Thành, Xuân Tiến, La Xuyên, Cát Đằng... giá trị sản lượng cũng chiếm tới 80% - 90%. Nhờ đó, các làng nghề đã có nguồn vốn đầu tư để cải thiện và tăng cường cơ sở hạ tầng nông thôn như xây dựng giao thông, phát triển mạng lưới điện và điện thoại, xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, xây dựng nhà ở kiên cố, hình thành các thị trấn, phố làng.
* Về mặt xã hội
Các làng nghề phát triển góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho lao động nông thôn đang dư thừa nhiều, qua đó làm giảm tỷ lệ thất nghệp, giảm tốc độ di dân lên thành phố, thực hiện chủ trương “ly nông bất ly hương” và hạn chế các tệ nạn xã hội.
Các hộ làm nghề trước hết tạo công ăn việc làm cho cho các thành viên trong gia đình. Các cơ sở chuyên làm nghề tạo việc làm thường xuyên cho bình quân khoảng 30 lao động, ngoài ra còn thu hút thêm những lao động nhàn rỗi trong nông thôn. Các làng nghề thường sử dụng tối thiểu khoảng 50% số lao động trong làng làm nghề thường xuyên và khoảng 20% lao động không thường xuyên. Những làng nghề có quy mô sản xuất lớn còn thu hút cả lao động ở các làng lân cận, hình thành nên chợ lao động. Ngoài ra làng nghề phát triển còn tạo ra việc làm cho đội ngũ lao động làm dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản phẩm của mình như: khai thác, vận chuyển, cung cấp nguyên vật liệu, lưu thông, tiêu thụ sản phẩm...
Nhờ tạo việc làm, tăng thu nhập, giải quyết thời gian nông nhàn, các làng nghề được coi là động lực trực tiếp làm chuyển dịch cơ cấu xã hội nông thôn theo hướng tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, nâng cao phúc lợi cho người lao động, đồng thời góp phần đáng kể trong việc hạn chế phát sinh các tệ nạn xã hội ở nông thôn.
* Về mặt chính trị
Nhà nước chủ trương phát triển các làng nghề sẽ cải thiện được đời sống của người lao động, làm cho họ tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhờ đó sẽ ổn định được tình hình chính trị ở nông thôn. Làng nghề phát triển cũng góp phần làm tăng sức mạnh kinh tế, qua đó củng cố tiềm lực an ninh quốc phòng của địa phương và của cả nước.
Ngoài ra, các sản phẩm mang tính truyền thống của làng nghề cũng góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc, bảo tồn tinh hoa nghề nghiệp của cha ông. Các sản phẩm này khi đến với cộng đồng quốc tế sẽ giúp bạn bè quốc tế hiểu biết hơn về đất nước, về nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam.
II. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LÀNG NGHỀ
1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Trên cơ sở hoạt động của ngân hàng thì ta có thể hiểu: Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa ngân hàng và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác) trong đó ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán.
Có rất nhiều cách phân loại tín dụng ngân hàng nhưng trên thực tế, các ngân hàng thương mại thường phân chia tín dụng dựa trên hai tiêu thức: đối tượng khách hàng và thời hạn cho vay.
Căn cứ vào đối tượng khách hàng, tín dụng ngân hàng được chia thành hai loại: Tín dụng đối với các doanh nghiệp quốc doanh và tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Căn cứ vào thời hạn cho vay, tín dụng ngân hàng được chia thành ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn đến 12 tháng và thường được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn trên 5 năm và thường được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Trong hoạt động thực tế của các ngân hàng thương mại thì tỷ trọng của các khoản tín dụng ngắn hạn là lớn nhất.
2. Quy trình tín dụng của ngân hàng
Quy trình tín dụng của ngân hàng chính là quy trình nghiệp vụ cho vay, một trong những nghiệp vụ cơ bản của các ngân hàng thương mại. Theo quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam thì quy trình nghiệp vụ cho vay là bản hướng dẫn về trình tự tổ chức thực hiện các nội dung cơ bản của kỹ thuật nghiệp vụ cho vay của ngân hàng, từ khi phát sinh đến khi kết thúc mà các cán bộ tín dụng và cán bộ lãnh đạo ngân hàng có liên quan phải thực hiện.
Để giúp cán bộ tín dụng thực hiện được một khoản cho vay có chất lượng và hiệu quả, các ngân hàng thường đưa ra một quy trình tín dụng chặt chẽ, thích hợp với một nhóm đối tượng nhất định hoặc chung cho toàn bộ khách hàng vay vốn. Quy trình tín dụng thường bao gồm các bước như sau:
- Bước 1: Cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và làm hồ sơ vay vốn, bao gồm: giấy đề nghị vay vốn, các báo cáo tài chính thời điểm gần nhất.
- Bước 2: Điều tra, tổng hợp, thu thập thông tin về khách hàng và phương án vay vốn: phỏng vấn khách hàng, tổng hợp những thông tin từ các ngân hàng có quan hệ với khách hàng, các tổ chức có liên quan, thông tin từ thị trường và tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn: năng lực pháp lý, uy tín, năng lực tài chính của khách hàng, phương án vay vốn và khả năng trả nợ, đánh giá tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh.
- Bước 4: Trưởng phòng tín dụng căn cứ vào tờ trình thẩm định, đề nghị duyệt cho vay của cán bộ tín dụng và hồ sơ vay vốn của khách hàng để ra quyết định đối với khách hàng.
- Bước 5: Cán bộ tín dụng hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và chuyển hồ sơ sang bộ phận kế toán.
- Bước 6: Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay để quyết định hình thức phát tiền vay bằng tiền mặt, ngân phiếu, chuyển khoản cho phù hợp.
Sau khi phát tiền vay cho khách hàng, cán bộ tín dụng phải kiểm tra, giám sát khách hàng trong quá trình sử dụng vốn vay, đồng thời tiến hành thu hồi nợ khi đến hạn và tiến hành xử lý rủi ro nếu có.
Quy trình tín dụng nói chung phải được xây dựng trên cơ sở phù hợp với hoạt động của ngân hàng và thuận tiện cho khách hàng vay vốn. Quy trình tín dụng đưa ra phải được thực hiện một cách nghiêm ngặt để đảm bảo cho tính hệ thống và an toàn của hoạt động tín dụng, tạo điều kiện cho khâu kiểm tra, kiểm soát tín dụng trước, trong và sau khi cho vay.
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển làng nghề
* Tín dụng ngân hàng cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở các làng nghề
Có thể nói vốn là một yếu tố quan trọng nhất với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, là tiền đề của mọi hoạt động sản xuất vật chất. Đơn vị sản xuất ở làng nghề hầu hết là các hộ gia đình mà nguồn tiền dự trữ nhỏ, không đủ để đầu tư ban đầu cũng như mở rộng sản xuất kinh doanh. Mặt khác quá trình sản xuất ở làng nghề trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, phụ thuộc nhiều vào tính thất thường của nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Vì vậy, nhu cầu vốn ở các làng nghề là rất lớn. Các ngân hàng thương mại với nguồn vốn dồi dào sẽ đáp ứng được mọi nhu cầu tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở các làng nghề, góp phần cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục.
Nhờ có nguồn tín dụng của Ngân hàng mà các làng nghề có vốn để mua nguyên vật liệu dự trữ cho mùa sản xuất sau, đây là một yếu tố quan trọng do sản xuất ở các làng nghề phụ thuộc rất nhiều và nguồn nguyên vật liệu, do đó có những lúc nhu cầu của thị trường lớn nhưng các hộ và cơ sở lại không có nguyên liệu để sản xuất. Chủ động được khâu này sẽ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề ổn định, đảm bảo được thu nhập cho người lao động.
* Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của làng nghề
Các đơn vị sản xuất kinh doanh ở làng nghề khi vay vốn ngân hàng đều phải trả lãi cho đồng vốn mà họ được sử dụng. Do đó họ buộc phải sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả và làm ăn có lãi. Họ phải tính toán sao cho mỗi đồng vốn bỏ ra phải bù đắp được chi phí sản xuất, thuế, lãi ngân hàng đồng thời phải thu được lãi. Như vậy, thông qua việc cung cấp vốn, ngân hàng đã gián tiếp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các làng nghề, buộc họ phải chú ý đến hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng cách nâng cao chất lượng, nâng cao hiệu quả sản xuất và hạ giá thành sản phẩm...
Nhờ có nguồn vốn vay ngân hàng, các hộ và cơ sở ở làng nghề có thể mở rộng quy mô sản xuất, qua đó sẽ tiết kiệm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm của làng nghề. Thêm vào đó, khi tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, các chủ hộ và cơ sở sản xuất ở làng nghề phải thực hiện hạch toán kinh tế đầy đủ để chứng minh việc sử dụng vốn đúng mục đích. Việc làm này gián tiếp tăng trình độ quản lý sản xuất kinh doanh cho các chủ hộ và cơ sở và đồng thời cũng góp phần tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh ở làng nghề.
Bên cạnh việc cung cấp nguồn tín dụng cho làng nghề, các cán bộ tín dụng của ngân hàng còn đóng vai trò là những người tư vấn, giúp cho các dự án sản xuất kinh doan