Để hoàn thành sự nhgiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chỉ ra rằng nước ta cần phải “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, khuyến khích xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu bằng các sản phẩm hữu hiệu được sản xuất trong nước”. Với tinh thần đó nước ta đã thực hiện AFTA, gia nhập APEC và khi có đủ điều kiện sẽ gia nhập WTO.
Việc thực hiên hiệp định thương mại Việt Mỹ và những cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO buộc các thành phần kinh tế nước ta phải chấp nhận cạnh tranh bình đẳng theo luật chơi chung do cộng đồng quốc tế quy định. Doanh nghiêp ngoài quốc doanh của ta chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 90% tổng số các doanh nghiệp, có vai trò đặc biệt quan trọng tạo việc làm, tạo thu nhập, góp phần ổn định đời sống xã hội. Ngoài ra kinh tế ngoài quốc doanh còn tham gia tích cực vào hoạt động xuất nhập khẩu, nâng cao cạnh tranh của khu vực này nhằm giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường nước ngoài, có ý nghĩa quan trọng trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, ngoài những điều kiện kinh tế xã hội như thị trường, thiết bị công nghệ, nhà xưởng, trình độ quản lý, trình độ tay nghề để đảm bảo phát triển nhanh, mạnh và có hiệu quả đối với các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh trong quá trình hội nhập thì một điều không thể không nhắc đến là điều kiện về vốn tài chính. Mọi hoạt động kinh doanh đều cần vốn tài chính trong khi các đơn vị này lại rất hạn hẹp và gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó các ngân hàng thương mại còn e ngại khi cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vay, nguyên nhân chính là do chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế này còn chưa cao. Điều này đã làm ảnh hưởng tới công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.
Bởi vậy, sau khi thực tập tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm và nhận thức rõ nhưng khó khăn mà Ngân hàng đang phải đối mặt trong hoạt động tín dụng, đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm” đã được chọn để nghiên cứu và phát triển thành luận văn tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm.
Do nhận thức còn hạn chế và thời gian học hỏi còn chưa nhiều, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo nhằm hoàn thiện hơn về vấn đề ngiên cứu.
82 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1166 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Để hoàn thành sự nhgiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chỉ ra rằng nước ta cần phải “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, khuyến khích xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu bằng các sản phẩm hữu hiệu được sản xuất trong nước”. Với tinh thần đó nước ta đã thực hiện AFTA, gia nhập APEC và khi có đủ điều kiện sẽ gia nhập WTO.
Việc thực hiên hiệp định thương mại Việt Mỹ và những cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO buộc các thành phần kinh tế nước ta phải chấp nhận cạnh tranh bình đẳng theo luật chơi chung do cộng đồng quốc tế quy định. Doanh nghiêp ngoài quốc doanh của ta chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 90% tổng số các doanh nghiệp, có vai trò đặc biệt quan trọng tạo việc làm, tạo thu nhập, góp phần ổn định đời sống xã hội. Ngoài ra kinh tế ngoài quốc doanh còn tham gia tích cực vào hoạt động xuất nhập khẩu, nâng cao cạnh tranh của khu vực này nhằm giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường nước ngoài, có ý nghĩa quan trọng trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, ngoài những điều kiện kinh tế xã hội như thị trường, thiết bị công nghệ, nhà xưởng, trình độ quản lý, trình độ tay nghề… để đảm bảo phát triển nhanh, mạnh và có hiệu quả đối với các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh trong quá trình hội nhập thì một điều không thể không nhắc đến là điều kiện về vốn tài chính. Mọi hoạt động kinh doanh đều cần vốn tài chính trong khi các đơn vị này lại rất hạn hẹp và gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó các ngân hàng thương mại còn e ngại khi cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vay, nguyên nhân chính là do chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế này còn chưa cao. Điều này đã làm ảnh hưởng tới công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.
Bởi vậy, sau khi thực tập tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm và nhận thức rõ nhưng khó khăn mà Ngân hàng đang phải đối mặt trong hoạt động tín dụng, đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm” đã được chọn để nghiên cứu và phát triển thành luận văn tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm.
Do nhận thức còn hạn chế và thời gian học hỏi còn chưa nhiều, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo nhằm hoàn thiện hơn về vấn đề ngiên cứu.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
I. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
1. Khái niệm về kinh tế ngoài quốc doanh
Kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế khá phong phú, bao gồm mọi loại hình kinh doanh cá thể, tổ hợp, hợp tác xã đến các công ty tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần … hoạt động trên tất cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Với lĩnh vực tham gia rộng rãi như vậy, kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo một phần không nhỏ GDP, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước, thu hút lao động, tận dụng, khai thác tiềm năng của đất nước… Nhận thức rõ tầm quan trọng của khu vực kinh tế này, năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế theo hướng: “kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Sự khẳng định này khiến cho kinh tế quốc doanh không còn vị trí độc tôn như trước nữa, thay vào đó là sở hữu tư nhân được thừa nhận, kinh tế ngoài quốc doanh được tồn tại và phát triển bình đẳng với kinh tế Nhà nước.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các đơn vị kinh doanh có tính chất tư hữu (không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài). Xét về loại hình doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã (HTX).
- Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
- Công ty TNHH: Là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả các thành viên phải được đóng góp đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần vốn góp được ghi rõ trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành bất kì tài liệu chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện tự do. Việc chuyển vốn góp cho người không phải là thành viên phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
- Công ty cổ phần: Là công ty trong đó số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động gồm ít nhất là 3 thành viên. Vồn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, giá trị mỗi cổ phần gọi là cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua một hay nhiều cổ phiếu.
- Hợp tác xã: Là đơn vị kinh tế gồm nhiều lao dộng cùng nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã hoạt động theo nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro nhằm kết hợp sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề thuộc phạm vi sản xuất kinh doanh.
Trong những năm gần đây quan điểm phát triển kinh tế nước ta bằng con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân đòi hỏi sự khác nhau của các thành phần kinh tế. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên nhanh chóng và tham gia tích cực hơn vào thị trường, góp phần làm cho nền kinh tế trở lên sôi động.
2. Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay
Trong nền kinh tế thị trường mọi thành phần kinh tế đều tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Chính sách kinh tế mở đã tạo cơ hội cho kinh tế ngoài quốc doanh phát huy hết khả năng tiềm tàng mà trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không có cơ hội để phát triển. Trong nền kinh tế thị trường mọi thành phần kinh tế đều có quyền bình đẳng. Chính điều này đã tạo nên sức mạnh và những thế mạnh riêng cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nước ta có những đặc điểm sau:
· Chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh và dễ thích ứng
Người quản lý thường là chủ sở hữu hoặc là người có vốn góp lớn nhất nên họ được quyền ra tất cả quyết định. Cũng do quy mô hoạt động nhỏ nên họ được tự do hành động. Sự gắn bó sát sao quyền lợi của của doanh nghiệp với quyền lợi của người lãnh đạo khiến họ phải tập trung hết trí lực cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Họ có khả năng tự quyết, nên họ có thể chớp lấy những cơ hội kinh doanh thuận lợi. Vì vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường và sự tiến bộ không ngừng của khoa học. Bất cứ sản phẩm nào cũng có chu kì sống của nó, từ khi mới xuất hiện trên thị trường cho đến khi phát triển cũng như thoái trào, lợi nhuận chỉ thu được tối đa trong giai đoạn tăng trưởng. Việc thâm nhập vào thị trường hàng hoá trong giai đoạn này sẽ đem lại cho doanh nghiệp thành công và khi sản phẩm bị thị trường từ chối thì doanh nghiệp dễ dàng rút lui và lựa chọn mặt hàng kinh doanh khác trong phạm vi được phép sao cho có lợi nhất, và phù hợp nhất với khả năng của mình. Với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật như hiện nay thì công nghệ đầu tư dễ bị lạc hậu. Vì vậy đây là một thế mạnh để doanh nghiệp ngoài quốc doanh cạnh tranh với các doanh nghiệp Nhà nước.
· Cơ cấu quản lý linh hoạt
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường thích hợp với những cơ cấu tổ chức đơn giản. Số lượng nhân viên ít và các nhân viên này thường phải đảm nhận công việc theo kiểu đa năng. Phần lớn các chủ doanh nghiệp vừa phải đảm nhận vai trò quản trị (điều hành và chỉ huy nhân viên của mình) vừa phải đảm nhiệm vai trò lãnh đạo (tìm kiếm và quyết định cơ hội đầu tư). Mặt khác, vốn của thành phần kinh tế này là do những chủ thể kinh doanh tình nguyện đóng góp, do các cổ đông đóng góp hay do liên doanh liên kết… bằng tiền hoặc tài sản. Vì thế họ có toàn quyền quyết định nghành nghề kinh doanh phù hợp vơí khả năng, trình độ cũng như nhu cầu của thị trường đối với loại hàng hoá mà họ sẽ kinh doanh… Mặc dù quy mô hoạt động khá nhỏ bé, song đó lại là một lợi thế cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng vòng quay vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn… Trong khi đó, mặc dù các doanh nghiệp có nguồn vốn lớn, ổn định từ Nhà nước nhưng lại không có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, do đó không có sự linh động sáng tạo, phản ứng kịp thời với những biến động của thị trường… Do vậy cơ cấu chung của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường đơn giản, gọn nhẹ, mang tính linh hoạt, dễ thay đổi cho phù hợp với yêu cầu mới.
· Chi phí gián tiếp thấp:
Đặc điểm của một doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một người chủ và một số nhân viên làm việc không thường xuyên, giúp cho chi phí thấp. Chi phí gián tiếp thấp tạo lợi thế cạnh tranh về giá của các sản phẩm cuối cùng. Chủ doanh nghiệp có tinh thần trách nhiệm cao vì lợi ích của họ gắn liền với sự thành bại của doanh nghiệp. Cũng chính vì vậy họ đòi hỏi nhân viên của họ làm việc nghiêm túc và hiệu quả, giảm thiểu sự lãng phí nguồn lực vẫn thường gặp ở các doanh nghiệp quốc doanh. Đồng thời khu vực kinh tế này cũng tạo nên sức hút đối với phần đông dân cư trong việc cung ứng các đồng tiền nhàn rỗi vào sản xuất kinh doanh, tạo nên sức sống cho nền kinh tế.
Rõ ràng là phát triển kinh tế khu vực ngoài quốc doanh là phù hợp với điều kiện và khả năng về vốn, kỹ thuật cũng như trình độ quản lý của các nhà đầu tư trong nước. Đồng thời nó có khả năng linh hoạt và dễ điều chỉnh hơn so với các doanh nghiệp có quy mô lớn trong nền kinh tế thị trường hiện nay của Việt nam. Do vậy khối lượng vốn để hỗ trợ cho từng doanh nghiệp sẽ không lớn, hiệu quả sử dụng vốn cao và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tuy nhiên thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng có không ít những mặt hạn chế của nó.
· Khả năng tài chính còn nhỏ bé
Vốn luôn là khó khăn lớn nhất với sự tăng trưởng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong giai đoạn đầu, phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều gặp phải vấn đề thiếu vốn. Các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh này vì họ chưa có quá trình kinh doanh, chưa có uy tín và chưa thể tạo lập khả năng trả nợ. Do vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phần lớn phải dựa vào nguốn vốn phi chính thức từ bạn bè, họ hàng hay thu hút vốn qua hình thức mua bán chịu… Việc mở rộng doanh nghiệp luôn bị ngăn cản bởi sự hạn hẹp về nguồn vốn.
· Thiếu khả năng quản lý, đặc biệt trong việc lập kế hoạch tài chính: Việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng phương án sản xuất có hiệu quả phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ, khả năng quản lý kinh doanh của các chủ doanh nghiệp, khả năng dự đoán về sự biến động của nghành, của nền kinh tế… do vậy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khó có thể xây dựng được kế hoạch tài chính, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, trong khi thói quen sử dụng các dịch vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp chưa hình thành. Trong các doanh nghiệp tư nhân, đa số quản trị bằng kinh nghiệm theo suy nghĩ hiểu biết của riêng mình. Nhiều người trong số họ chưa qua đào tạo trường lớp nên ít hiểu về pháp luật, yếu kém về năng lực và kiến thức.
Các sổ sách kế toán ở các doang nghiệp ngoài quốc đoanh thường quá đơn giản, không cập nhật, không đầy đủ và thiếu chính xác. Do vậy việc đánh giá doanh nghiệp thông qua phân tích tài chính (để quyết định cho vay) thực sự khó khăn đối với ngân hàng, nhất là hiện nay hầu hết các sổ sách của doanh nghiệp đều chưa qua kiểm toán.
· Trình độ công nghệ sản xuất chưa phát triển:
Trình độ công nghệ là yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Hiện tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có công nghệ hiện đại không nhiều, chỉ có một số công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài được trang bị máy móc và dây truyền tiến tiến, còn lại là sử dụng các công cụ thủ công, dây truyền thiết bị chắp vá, thiếu đồng bộ. Mặc dù việc áp dụng công nghệ kỹ thuật mới vào dây truyền sản xuất là vô cùng quan trọng nhưng họ sợ phảI đầu tư vốn lớn và sợ giá thành sản phẩm cao.
· Môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định:
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã làm cho nền kinh tế nước ta trì trệ, không tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các thể chế kinh tế và pháp lý chưa được xác lập, phát triển và hoàn thiện một cách đầy đủ nên đã ảnh hưởng rất lớn tới phương hướng sản xuất kinh doanh và chiến lược đầu tư.
3. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế nước ta
Trong cơ chế mới, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã được phục hồi dần, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế có khả năng cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Với tinh thần tự chủ, năng động, sáng tạo, kinh tế quốc doanh đã sớm thích nghi với những biến đổi thường xuyên của thị trường, đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu được của mình trong nền kinh tế.
Thứ nhất, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.
Như chúng ta đã biết khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với quy mô vốn đầu tư không nhiều có thể dễ dàng thành lập bởi một số cá nhân, gia đình hay một số tổ chức, cùng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương ứng nhiều lao động vì đây là nơi cung cấp việc nhanh nhất, giúp tạo việc làm với số vốn thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp có quy mô lớn.
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, kinh doanh tư nhân, cá thể phát triển nhanh chóng cả về chất lượng, số lượng cũng như quy mô hoạt động, thu hút ngày càng nhiều đầu tư trong dân cư vào mọi lĩnh vực sản xuất vật chất và dịch vụ.
Trong những năm gần đây, cùng với số lao động đước giải quyết việc làm bằng vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước, đã có thêm khá nhiều lao động có thêm việc làm do các đơn vị tư nhân bỏ vốn vào lao động kinh doanh. Hàng năm có khoảng hơn một triệu lao động có việc làm được tạo ra chủ yếu nhờ khu vực kinh tế này.
Thứ hai, kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, là động lực phát triển của nền kinh tế.
Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các nghành nghề sản xuất kinh doanh đều do khu vực kinh tế quốc doanh đảm nhận. Hiện nay, trừ một số ít các lĩnh vực, nghành nghề mà Nhà nước giữ vai trò độc quyền, còn lại hầu hết các lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có sự tham gia của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với mức độ ngày càng lớn. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã tác động mạnh mẽ đến các doanh nghiệp Nhà nước, buộc các doanh nghiệp này phải đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức kinh doanh để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Nói cách khác, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển đã thúc đẩy kinh tế quốc doanh phát triển mạnh mẽ hơn thông qua cạnh tranh lành mạnh, làm cho nền kinh tế năng động hơn. Như vậy, sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần quan trọng hình thành và xác lập vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường, đẩy nhanh việc hình thành nền kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy cải cách doanh nghiệp Nhà nước, cải tổ cơ chế quản lý theo hướng thị trường, mở cửa hợp tác với bên ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thứ ba, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển góp phần tăng thu ngân sách cho Nhà nước.
Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Do vậy để tăng nguồn thu cho ngân sách, biện pháp quan trọng nhất là không ngừng phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển là một bộ phận đóng góp to lớn cho ngân sách Nhà nước (khoảng 30%) thông qua thuế và các khoản khác. Nguồn này sẽ được dùng để đầu tư cho các nghành kinh tế mũi nhọn hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng hay giúp đỡ hỗ trợ một số nghành kinh tế yếu kém. Nói cách khác, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vai trò điều hoà thu nhập cũng như đóng góp vào ngân sách Nhà nước.
Thứ tư, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp cho nền kinh tế một khối lưọng lớn hàng hoá, dịch vụ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đa dạng về nghành nghề, quy mô và hình thức kinh doanh đã góp phần to lớn trong việc lấp chỗ trống cho những thiếu hụt từ kinh tế quốc dân, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo ra sức sống cho nền kinh tế.
Bằng việc sản xuất hàng hoá, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần to lớn vào việc tạo ra sự phong phú về chủng loại hàng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Do đó cơ hội lựa chọn hàng hoá và dịch vụ của người dân tăng lên và các doanh nghiệp phải ra sức cạnh tranh với nhau để có thể tiêu thụ sản phẩm của mình nhiều nhất. Để thắng trong cạnh tranh, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phi để từ đó giảm giá thành.
Thứ năm, kinh tế ngoài quốc doanh là thị trường để ngân hàng huy động vốn, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân và cá thể. Kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển nhanh chóng cả về quy mô lẫn chất lượng. Tính đến tháng 12 năm 2001, cả nước có khoảng 36.000 doanh ngiệp ngoài quốc doanh. Hầu hết các doanh nghiệp đều hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần… Các nhà sản xuất đều mở tài khoản tiền gửi tại hệ thống Ngân hàng thương mại. Đây có thể coi là nguồn vốn rẻ và dồi dào cho việc huy động vốn của ngân hàng thương mại nếu họ biết tổ chức tốt công tác thanh toán, tạo ra nhiều dịch vụ hơn và thay đổi phong cách làm việc với khách hàng… Với sự phát triển ngày càng mạnh của kinh tế ngoài quốc doanh thì nhu cầu về vốn ngày càng tăng và thị trường hoạt động tín dụng của các ngân hàng càng được mở rộng, đồng thời đẩy mạnh hoạt động của các nghiệp vụ ngân hàng khác.
II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
1. Tín dụng ngân hàng
1.1. Khái niệm.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng- một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với một bên là các chủ thể còn lại của nền kinh tế, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Như vậy nói đến tín dụng ngân hàng là đề cập đến cả “đi vay” và “cho vay”. Tuy nhiên trên thực tế, do tính chất phức tạp của hoạt động ngân hàng, nên hoạt động đi vay hay nói cách khác là hoạt động nhận tiền gửi được gọi là hoạt động huy động vốn do bộ phận Nguồn vốn thực hiện. Còn hoạt động cho vay được đảm nhận bởi bộ phận Tín dụng. Từ đó người ta đã đưa ra một khái niệm khác về tín dụng ngân hàng là:
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, trong đó ngân hàng là người cho vay, còn người đi vay là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi vào một thời điểm xác định trong tương lai như hai bên đã thoả thuận”.
1.2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng.
TDNH được cấu thành nên từ sự kết hợp của ba yếu tố chính là: lòng tin (sự tin tưởng vào khả năng hoàn trả đầy đủ và đúng thời hạn của người cho vay đối với người đi vay); thời hạn của quan hệ tín dụng, sự hứa hẹn hoàn trả cụ thể như sau:
Thứ nhất là lòng tin: Trong quan hệ tín dụng “lòng tin” được biểu hiện từ nhiều phía, không chỉ có lòng tin từ một phía người cho vay đối với người đi vay. Nếu người cho vay không tin tưởng vào khả năng hoàn trả của người đi vay thì quan hệ tín dụng có thể không phát sinh và ngược lại, nếu người đi vay cảm nhận thấy người cho vay không thể đáp ứng được yêu cầu về khối lượng tín dụng, về thời hạn… thì quan hệ tín dụng cũng không phát sinh. Tuy nhiên,