Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, ngành thuế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Thuế thực sự là nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia, góp phần thực hiện các mục đích khác như định hướng sản xuất, tiêu dùng; điều tiết thu nhập Hệ thống chính sách thuế dần được hoàn thiện, cơ chế quản lý thuế đang được từng bước được cải cách cho phù hợp với quá trình phát triển đất nước và thông lệ quốc tế.
Hiện nay, trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, đồng thời qui mô, hình thức, cách thức hoạt động của các doanh nghiệp cũng đa dạng và phức tạp hơn. Do đó cơ chế quản lý cũ đã không còn phù hợp, đòi hỏi phải chuyển sang cơ chế quản lý mới, tiên tiến hơn mà đa số các nước trên thế giới đã áp dụng, đó là cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế.
Để thực hiện mô hình quản lý theo chức năng thì nhiệm vụ hỗ trợ, tuyên truyền chính sách thuế cho người nộp thuế là một trong những công tác được coi là chìa khoá tăng thu. Trong quá trình kiện toàn tổ chức ngành Thuế, Bộ Tài Chính và Tổng Cục Thuế luôn xác định công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT là nhiệm vụ quan trọng để thực hiện có hiệu quả công tác quản lý và thu thuế của ngành thuế trong giai đoạn hiện nay và những năm tới.
Việc tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế đã có những bước phát triển nhất định, thu được một số kết quả khả quan và có tác dụng tích cực đối với cơ chế quản lý thuế hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó thì vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Thực trạng này đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu, từ đó có biện pháp khắc phục, hoàn thiện công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trong điều kiện hiện nay của Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do trên, em đã chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT tại Chi Cục thuế Quận Hà Đông trong cơ chế tự khai, tự nộp ” làm đề tài luận văn của mình.
80 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1726 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế tại Chi Cục thuế Quận Hà Đông trong cơ chế tự khai, tự nộp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, ngành thuế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Thuế thực sự là nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia, góp phần thực hiện các mục đích khác như định hướng sản xuất, tiêu dùng; điều tiết thu nhập… Hệ thống chính sách thuế dần được hoàn thiện, cơ chế quản lý thuế đang được từng bước được cải cách cho phù hợp với quá trình phát triển đất nước và thông lệ quốc tế.
Hiện nay, trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, đồng thời qui mô, hình thức, cách thức hoạt động của các doanh nghiệp cũng đa dạng và phức tạp hơn. Do đó cơ chế quản lý cũ đã không còn phù hợp, đòi hỏi phải chuyển sang cơ chế quản lý mới, tiên tiến hơn mà đa số các nước trên thế giới đã áp dụng, đó là cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp thuế.
Để thực hiện mô hình quản lý theo chức năng thì nhiệm vụ hỗ trợ, tuyên truyền chính sách thuế cho người nộp thuế là một trong những công tác được coi là chìa khoá tăng thu. Trong quá trình kiện toàn tổ chức ngành Thuế, Bộ Tài Chính và Tổng Cục Thuế luôn xác định công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT là nhiệm vụ quan trọng để thực hiện có hiệu quả công tác quản lý và thu thuế của ngành thuế trong giai đoạn hiện nay và những năm tới.
Việc tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế đã có những bước phát triển nhất định, thu được một số kết quả khả quan và có tác dụng tích cực đối với cơ chế quản lý thuế hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó thì vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Thực trạng này đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu, từ đó có biện pháp khắc phục, hoàn thiện công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trong điều kiện hiện nay của Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do trên, em đã chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT tại Chi Cục thuế Quận Hà Đông trong cơ chế tự khai, tự nộp ” làm đề tài luận văn của mình.
2 . Mục đích nghiên cứu của đề tài :
- Đề tài đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trong cơ chế tự khai, tự nộp.
- Đề tài đánh giá thực trạng của công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT ở Việt Nam trong thời gian qua. Từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trong cơ chế tự khai, tự nộp thuế ở Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu :
Đề tài được giới hạn phạm vi và đối tượng nghiên cứu về công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT trong cơ chế tự khai, tự nộp, đưa ra những giải pháp khả thi để nâng cao hiệu quả thu thuế, sao cho thu đúng thu đủ số thuế cần thu, đồng thời đảm bảo công bằng giữa NNT.
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận và những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, quan điểm phát triển kinh tế của Đảng, kết hợp vận dụng với các biện pháp như tổng hợp về lý luận, phân tích thực trạng nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn đề tài nghiên cứu
Những nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện những lý luận chung, những khó khăn thử thách trong công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT. Từ đó, giúp cán bộ thuế biết rõ những vấn đề mà doanh nghiệp thường gặp phải cần được hỗ trợ từ cơ quan thuế. Đồng thời, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT hiện nay .
Với điều kiện thời gian có hạn cũng như kiến thức của bản thân còn hạn chế nên đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy, cô cùng toàn thể các bạn để em có điều kiện bổ sung, nâng cao hiểu biết, nhằm phục vụ cho công tác của mình sau này. Em xin trân trọng cảm ơn!
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục viết tắt, Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trong cơ chế tự khai, tự nộp
Chương 2: Thực trạng công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT tại chi cục thuế Quận Hà Đông trong cơ chế tự khai, tự nộp
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trên địa bàn Quận Hà Đông trong thời gian tới
Chương 1:
Những vấn đề chung về công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT trong cơ chế tự khai, tự nộp
1.1 Một số nhận thức cơ bản về cơ chế tự khai, tự nộp
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm về cơ chế tự khai, tự nộp
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế là một cơ chế quản lý thuế hiện đại, phù hợp với hệ thống thuế của nền kinh tế thị trường.
Tự khai – tự nộp thuế ( theo nghĩa rộng ) là cơ chế quản lý thuế được thực hiện trên nền tảng sự tuân thủ tự giác về nghĩa vụ thuế của NNT. NNT căn cứ vào các qui định của pháp luật thuế để xác định nghĩa vụ thuế của mình, tự kê khai thuế, nộp tờ khai đúng hạn và nộp thuế theo số thuế đã tính.
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế là một phương thức quản lý thuế được xây dựng dựa trên nền tảng là sự tuân thủ tự nguyện của NNT, quản lý thuế dựa trên kỹ thuật quản lý rủi ro.
Theo cơ chế này, cơ quan thuế không can thiệp vào quá trình kê khai, nộp thuế của tổ chức, cá nhân kinh doanh nhưng cơ quan thuế sẽ tiến hành thanh tra, kiểm tra và áp dụng các biện pháp xử phạt, cưỡng chế theo luật định đối với những trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật về thuế như không nộp thuế, trốn thuế, gian lận thuế…
Áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp, cơ quan Thuế phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và giải đáp các vướng mắc về chính sách, chế độ, thủ tục về thuế mà các tổ chức, cá nhân thường gặp trong quá trình kê khai, nộp thuế để NNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình đối với Nhà nước.
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế là cơ chế quản lý hiện đại, hiệu quả, được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng, nó cho phép các cơ quan thuế phân bổ nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa, chuyên sâu trong quản lý, cải tiến các quy trình quản lý rõ ràng, làm tăng sự minh bạch trong quản lý thuế, đồng thời giảm bớt chi phí quản lý, thúc đẩy cải cách hành chính thuế.
Nội dung của cơ chế tự khai, tự nộp
Trong bất cứ chế độ xã hội nào, thuế luôn là công cụ để huy động nguồn thu đáp ứng nhu cầu chi tiêu vào các mục tiêu kinh tế, xã hội và chi tiêu cho bộ máy nhà nước. NNT có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước theo pháp luật quy định, còn cơ quan thuế được giao trách nhiệm quản lý Nhà nước trong việc thực hiện pháp luật thuế đảm bảo số thu cho ngân sách nhà nước. Trên cơ sở này hình thành mối quan hệ quản lý, trong đó, trách nhiệm và quyền hạn của NNT luôn có mối liên hệ hết sức chặt chẽ dựa trên các cách thức tổ chức thực hiện các hoạt động này gọi là cơ chế quản lý thuế.
Cơ chế quản lý cũ đòi hỏi cán bộ thuế phải kiểm tra tất cả các tờ khai thuế, các khoản phải thu dựa trên những số liệu mà cơ quan thuế có được để xác định số thuế chính thức phải nộp và ra thông báo thuế cho người nộp thuế. Cơ chế này thể hiện sự không tin tưởng hoặc ít tin tưởng của cơ quan thuế đối với NNT, cách thức quản lý mang tính áp đặt, nặng về sử dụng quyền lực của cơ quan thuế đối với NNT. Việc cơ quan thuế tính thuế thường gây ra nhiều tranh cãi, bất đồng giữa cơ quan quản lý và NNT về cách thức xác định số thuế phải nộp. NNT phải chờ đợi cơ quan thuế tính và ra thông báo mới có thể nộp thuế, làm ảnh hưởng đến tiến độ thu thuế. Việc xác định số thuế phải nộp trở thành trách nhiệm pháp lý của cơ quan thuế, do đó, không khuyến khích NNT tự giác tuân thủ. Hơn nữa, với sự gia tăng số lượng của NNT ngày càng nhanh chóng, cơ chế cơ quan thuế tính thuế đòi hỏi nguồn nhân lực của cơ quan thuế phải tăng lên tương ứng, dẫn đến chi phí quản lý thuế rất cao.
Do đó, đến nay hầu hết hệ thống thuế ở các quốc gia trên thế giới không còn áp dụng cơ chế thông báo thuế, mà chuyển sang cơ chế TKTN. NNT có trách nhiệm lưu giữ chứng từ, sổ sách kế toán để chứng minh các số liệu đã kê khai. Cơ quan thuế có nhiệm vụ hỗ trợ, hướng dẫn để NNT hiểu rõ chính sách thuế, các thủ tục về thuế, từ đó thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. Cơ quan thuế không can thiệp vào việc thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT nếu NNT tự giác tuân thủ nghĩa vụ thuế. Cơ quan thuế tập trung nguồn lực để giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của NNT, thông qua công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn những hành vi gian lận, trốn thuế của NNT. Việc kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế đối với NNT được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá những rủi ro để lựa chọn chính xác những trường hợp cần thanh tra, kiểm tra. Điều này sẽ giúp khắc phục được việc thanh tra, kiểm tra tràn lan, gây lãng phí nguồn lực cho cơ quan thuế và phiền hà cho NNT.
Cơ quan thuế có nhiệm vụ hỗ trợ, hướng dẫn để NNT hiểu rõ chính sách thuế, các thủ tục về thuế, từ đó thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. Cơ quan thuế không can thiệp vào việc thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT nếu NNT tự giác tuân thủ nghĩa vụ thuế. Cơ quan thuế tập trung nguồn lực để giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của NNT, thông qua công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn những hành vi gian lận, trốn thuế của NNT.
Cơ chế này giúp tạo được sự cân bằng giữa hai chức năng chủ yếu của cơ quan thuế là chức năng phục vụ và chức năng giám sát, kiểm tra hoạt động tuân thủ nghĩa vụ thuế đối với NNT. Nói cách khác, cơ chế này tạo nên sự kết hợp hài hoà vai trò của cơ quan thuế như một cơ quan công quyền thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về thuế với vai trò một cơ quan cung cấp dịch vụ thuế cho cộng đồng doanh nghiệp và xã hội.
Sơ đồ dưới đây mô tả khái quát về mối quan hệ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan thuế và NNT để thực hiện pháp luật về thuế. NNT có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế và cơ quan thuế có trách nhiệm hỗ trợ NNT thực hiện nghĩa vụ này, đồng thời thực hiện thanh tra, kiểm tra có lựa chọn trên cơ sở của quản lý rủi ro.
Sơ đồ 1.1: Hệ thống tự kê khai, tự nộp thuế
HỆ THỐNG TỰ KÊ KHAI, TỰ NỘP THUẾ
Nhiệm vụ cơ quan thuế, các tổ chức cung cấp dịch vụ thuế.
Hỗ trợ, hướng dẫn NNT.
NNT lưu giữ sổ sách kế toán.
NNT tính thuế.
NNT lập tờ khai thuế.
NNT nộp tờ khai đúng hạn.
NNT nộp thuế theo mức dự tính.
Kiểm tra đơn giản.
Thanh tra thuế đối với một số trường hợp chọn lọc.
Nhiệm vụ của NNT.
Nhiệm vụ của cơ quan thuế
Sự cần thiết thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế
Cơ chế tự khai, tự nộp thuế là cơ chế quản lý thuế tiên tiến, hiện đại, dựa trên ý chí tuân thủ tự giác của NNT. Với việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì cơ quan thuế sẽ không phải can thiệp vào việc thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp mà tập trung nguồn lực cho công tác tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để NNT có đủ năng lực thực hiện nghĩa vụ ngân sách nhà nước, đồng thời cũng tăng cường các biện pháp theo dõi, giám sát, kiểm tra để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh các hành vi vi phạm pháp luật thuế, tránh gây thất thu ngân sách nhà nước. Sự cần thiết thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp xuất phát từ các lý do chủ yếu sau:
Thứ nhất, Xuất phát từ yêu cầu khắc phục những hạn chế trong quản lý thuế hiện nay trước sự phát triển nhanh chóng của NNT
Với sự phát triển nhanh chóng của NNT cả về số lượng và về qui mô, phạm vi kinh doanh, hình thức, phương thức kinh doanh, tổ chức quản lý của ngành thuế đã bộc lộ nhiều điểm bất cập:
+ Về tổ chức bộ máy: Tổ chức và trình độ quản lý thuế của cơ quan thuế chưa theo kịp với sự phát triển nhanh chóng cả về số lượng, phạm vi, qui mô hoạt động kinh doanh cũng như sự phức tạp của các hình thức, phương thức kinh doanh của NNT.
+ Về phương thức quản lý: Doanh nghiệp ngày càng phát triển, cách thức hoạt động hiện đại hơn. Vì vậy, việc quản lý của cơ quan thuế cần khoa học, hợp lý, cần có sự chia sẻ của doanh nghiệp trong quá trình khai và nộp thuế.
+ Về công cụ quản lý: Với yêu cầu của phương thức quản lý theo rủi ro, dựa trên thông tin về NNT thì áp dụng tin học trong quản lý là một yêu cầu bắt buéc, bëi kh«ng thÓ x©y dùng thu thËp, xö lý vµ qu¶n lý hÖ thèng th«ng tin ®å sé nh vËy b»ng thñ c«ng. Hiện nay, ngành thuế đã thực hiện tin học hoá được khoảng 70% công việc quản lý thuế. Tuy nhiên, các ứng dụng tin học hiện nay được vận hành theo từng ứng dụng đơn lẻ và trên cơ sở các thông tin về NNT còn đang được lưu phân tán theo từng hồ sơ, từng sắc thuế, ở từng Chi cục, Cục thuế mà chưa tích hợp được trên phạm vi toàn quốc cũng như chưa tổng hợp được thông tin toàn diện về từng NNT. Để áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế một cách hiệu quả, đòi hỏi cơ sở vật chất của ngành thuế phải được hiện đại hóa, đặc biệt là hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thông tin, liên lạc sao cho việc kiểm tra, đối chiếu số liệu có thể phục vụ nhanh chóng và chính xác.
+ Về trình độ cán bộ: Trong những năm vừa qua, ngành thuế đã có những tiến bộ đáng kể trong việc đào tạo trình độ đại học, trung cấp cho cán bộ. Tuy có bằng cấp nhưng trình độ quản lý thuế của cán bộ còn thấp, chưa đồng đều, chưa được chú ý đào tạo về kỹ năng quản lý thuế, kỹ năng làm việc một cách chuyên nghiệp. Cán bộ chủ yếu vẫn làm việc theo kinh nghiệm, theo thói quen cá nhân, thể hiện văn hoá khi tiếp xúc với NNT còn có nhiều hạn chế. Vì vậy, khi thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp đòi hỏi cán bộ thuế phải có một cách nhìn nhận khác về phương thức quản lý này, yêu cầu về trình độ hiểu biết, thái độ ứng xử với NNT phải chuyên nghiệp, tạo điều kiện áp dụng tốt cơ chế tự khai, tự nộp thuế.
Thực hiện áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế có điều kiện để cải tiến cơ cấu tổ chức nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực hiện có, công tác quản lý thu thuế được tổ chức theo hướng ngày càng hiện đại và chuyên môn hóa. Nhờ việc không mất thời gian tính toán lại số thuế phải nộp của NNT và phát hành thông báo thuế mà cán bộ thuế có điều kiện tập trung thời gian và công sức cho các công việc quản lý khác như: công tác tuyên truyền, hỗ trợ, công tác thanh tra, kiểm tra, công tác đôn đốc thu nộp và cưỡng chế thuế đối với tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, giúp họ hiểu và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của mình đối với ngân sách nhà nước, … Triển khai thực hiện cơ chế này sẽ tạo điều kiện cho ngành thuế đẩy mạnh hiện đại hóa công tác quản lý mà cụ thể là đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học trong công tác quản lý thu thuế. Đó là tiền đề nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế.
Thứ hai, Xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế, đưa ngành thuế Việt Nam ngang tầm với các nước trong khu vực.
Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực tiến tới toàn cầu hoá kinh tế là tất yếu khách quan. Hội nhập quốc tế về thuế ngày càng rộng và càng sâu, nhằm khuyến khích đầu tư, tự do hoá thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới. Do đó, ngoài việc phải xây dựng hệ thống chính sách thuế tương thích, công tác quản lý thuế phải được cải cách và hiện đại hoá theo các chuẩn mực quản lý thuế quốc tế nhằm thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi, đồng nhất về thuế để phát triển kinh tế.
Quản lý theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế là phương thức quản lý thuế hiện đại. Để quản lý thuế theo cơ chế này, ngành thuế phải đổi mới, hiện đại hoá toàn diện các lĩnh vực trong quản lý thuế, sử dụng kỹ thuật quản lý thuế hiện đại và ứng dụng tin học trong quản lý. Do đó, việc áp dụng cơ chế này sẽ giúp ngành thuế khắc phục những tồn tại, yếu kém trong công tác quản lý thuế hiện hành, tạo điều kiện để công tác quản lý thuế Việt Nam ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ ba, Xuất phát từ yêu cầu cải cách quản lý hành chính Nhà nước.
Việc chuyển sang thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp là phù hợp với xu thế cải cách quản lý hành chính của nhà nước theo hướng tôn trọng, phát huy tính tự giác, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của người nộp thuế. Khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì NNT phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của số liệu kê khai và tính chính xác của việc tính toán số thuế phải nộp. Tức là, NNT được nâng cao trách nhiệm pháp lý trong việc kê khai thuế với Nhà nước, tăng sự tự giác, được chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Việc áp dụng cơ chế TKTN tạo nên sự kết hợp hài hoà vai trò của cơ quan thuế như một cơ quan công quyền thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về thuế với vai trò một cơ quan cung cấp dịch vụ thuế cho cộng đồng doanh nghiệp và xã hội.
Một số nét về công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT
Khái niệm
Mục tiêu của quản lý thuế trong xã hội hiện đại là tăng tính tuân thủ tự nguyện của NNT chứ không phải đưa ra những hình thức xử phạt các đối tượng trốn và tránh thuế. Để thực hiện mục tiêu này, cơ quan thuế không chỉ có nhiệm vụ theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc NNT thực hiện nghĩa vụ thuế, mà còn có trách nhiệm tạo ra những điều kiện tốt nhất để NNT tự giác, chủ động thực hiện nghĩa vụ thuế của mình.
Xét trên góc độ là một trong những biện pháp mà Chính phủ sử dụng nhằm đạt được mục tiêu trong quản lý, có thể hiểu dịch vụ hỗ trợ NNT và tuyên truyền pháp luật thuế là toàn bộ các hoạt động trợ giúp của cơ quan thuế cho các tổ chức, cá nhân để họ hiểu về chính sách, pháp luật thuế và tự nguyện tuân thủ pháp luật thuế. Vì vậy, hoạt động tuyên truyền pháp luật về thuế được xem là việc cơ quan thuế sử dụng các hình thức, phương tiện để cung cấp, truyền bá thông tin về pháp luật thuế đến với mọi người dân nhằm giúp cho họ hiểu rõ được bản chất và ý nghĩa của việc nộp thuế; quyền và nghĩa vụ của mình trong việc nộp thuế. Trong khi đó, dịch vụ hỗ trợ NNT là loại dịch vụ công do cơ quan thuế cung cấp để hỗ trợ người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, bao gồm các dịch vụ giải thích pháp luật, tư vấn và hỗ trợ việc chuẩn bị kê khai, tính thuế và xác định nghĩa vụ thuế.
Với khái niệm nêu trên, hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ pháp luật về thuế được xem là việc cơ quan thuế sử dụng các hình thức, phương tiện để cung cấp, truyền bá thông tin về pháp luật thuế đến với mọi người dân nhằm giúp cho họ hiểu rõ được bản chất và ý nghĩa của việc nộp thuế; quyền và nghĩa vụ của mình trong việc nộp thuế.
Nội dung công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT
1.2.2.1 Nội dung hoạt động tuyên truyền về thuế
Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật về thuế là nhiệm vụ của cán bộ thuế, bằng nhiều hình thức và phương pháp phù hợp để tuyên truyền về chính sách thuế một cách hiệu quả đến NNT và các tầng lớp dân cư. Hoạt động tuyên truyền về thuế bao gồm các nội dung tuyên truyền từ bản chất của thuế, lợi ích xã hội từ việc nộp thuế cho đến các biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuế …nhằm tạo điều kiện cho người dân hiểu và có ý thức chấp hành pháp luật thuế. Các biện pháp tuyên truyền kịp thời còn giúp người nộp thuế có thể cập nhật thường xuyên thông tin về thuế khi có những sửa đổi, bổ sung về chính sách để có những điều chỉnh cho phù hợp trong sản xuất kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ của mình. Ngôn ngữ tuyên truyền cần đơn giản, dễ hiểu để phù hợp với nhiều NNT khác nhau trong các tầng lớp dân cư khác nhau.
Nội dung hoạt động tuyên truyền về thuế có thể bao gồm các vấn đề sau:
- Tuyên truyền giải thích về bản chất, vai trò của thuế, các lợi ích xã hội có được từ việc sử dụng tiền thuế.
- Tuyên truyền phổ biến nội dung các chính sách, pháp luật về thuế.
- Phổ biến các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan thuế, của người nộp thuế và các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội, trong việc cung cấp thông tin và phối hợp trong việc thực hiện các luật thuế.
- Phổ biến các thủ tục về thuế, quy định về việc xử lý các vi phạm pháp luật thuế .
- Tuyên dương khen thưởng NNT chấp hành tốt pháp luật về thuế.
1.2.2.2 Nội dung dịch vụ hỗ trợ NNT
Hỗ trợ NNT tức là việc hướng dẫn, giải thích, tư vấn cho NNT hiểu rõ các vấn đề liên quan đến chính sách, chế độ thuế đã được quy định. Nếu như hoạt động tuyên truyền thuế thường được thực hiện theo ý muốn chủ quan của cơ quan thuế thì các dịch vụ hỗ trợ NNT thường được thực hiện theo nguyện vọng và yêu cầu từ phía NNT. Khi người nộp thuế có vướng mắc trong quá trình kê khai, tính thuế, quyết toán thuế hoặc các vấn đề có liên quan khác, họ có thể đề nghị cán bộ thuế tư vấn.
Hoạt động hỗ trợ NNT có thể bao gồm các nội dung sau đây :
- Hướng dẫn, tư