Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, đặc biệt khi nước ta đã chính thức gia nhập WTO, các doanh nghiệp (DN) trong nước nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng đang đứng trước cơ hội và thách thức lớn.
Hội nhập, một mặt mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ mới và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhưng cũng đặt các doanh nghiệp trước sự cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp nước ngoài trên cả thị trường trong và ngoài nước. Việc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những vấn đề được quan tâm nhất ở Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã từng chỉ ra bốn điểm yếu của doanh nghiệp nước ta là: “số lượng doanh nghiệp ít; quy mô nhỏ, thiếu vốn; công nghệ sản xuất kinh doanh nhìn chung lạc hậu; khả năng quản trị doanh nghiệp còn yếu kém”. Vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề cần được ưu tiên xem xét khi đổi mới các DN Nhà nước. Khi DN Nhà nước đảm bảo được vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn thì sẽ có nhiều điều kiện để thực hiện vai trò chủ đạo của mình; đồng thời giúp cho DN duy trì và đứng vững trên thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.
Cũng như các DN trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, đối với công ty Lâm Công nghiệp Long Đại, việc nghiên cứu và đánh giá quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình sử dụng các nguồn lực trở nên cấp bách và cần thiết; trong đó vấn đề hiệu quả sử dụng vốn là nội dung quan trọng cần phải xem xét. Xuất phát từ đó, chúng tôi chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại tỉnh Quảng Bình” làm luận văn thạc sỹ.
155 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1586 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, đặc biệt khi nước ta đã chính thức gia nhập WTO, các doanh nghiệp (DN) trong nước nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng đang đứng trước cơ hội và thách thức lớn.
Hội nhập, một mặt mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ mới và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhưng cũng đặt các doanh nghiệp trước sự cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp nước ngoài trên cả thị trường trong và ngoài nước. Việc đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những vấn đề được quan tâm nhất ở Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã từng chỉ ra bốn điểm yếu của doanh nghiệp nước ta là: “số lượng doanh nghiệp ít; quy mô nhỏ, thiếu vốn; công nghệ sản xuất kinh doanh nhìn chung lạc hậu; khả năng quản trị doanh nghiệp còn yếu kém”. Vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề cần được ưu tiên xem xét khi đổi mới các DN Nhà nước. Khi DN Nhà nước đảm bảo được vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn thì sẽ có nhiều điều kiện để thực hiện vai trò chủ đạo của mình; đồng thời giúp cho DN duy trì và đứng vững trên thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.
Cũng như các DN trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, đối với công ty Lâm Công nghiệp Long Đại, việc nghiên cứu và đánh giá quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình sử dụng các nguồn lực trở nên cấp bách và cần thiết; trong đó vấn đề hiệu quả sử dụng vốn là nội dung quan trọng cần phải xem xét. Xuất phát từ đó, chúng tôi chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại tỉnh Quảng Bình” làm luận văn thạc sỹ.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Luận văn "Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại tỉnh Quảng Bình" được lựa chọn nhằm giải quyết các mục tiêu cơ bản sau:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp;
- Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn, các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại;
- Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty trong thời gian tới.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp thống kê mô tả; phương pháp thống kê so sánh; phương pháp thay thế liên hoàn, phương pháp số chênh lệch; phương pháp dự báo; phương pháp toán kinh tế và một số phương pháp khác.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng và nội dung nghiên cứu của luận văn là hiệu quả sử dụng vốn và các vấn đề có liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Công ty trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2006 và đề xuất giải pháp đến năm 2010.
- Về không gian: Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại, tỉnh Quảng Bình.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm, bản chất của vốn trong doanh nghiệp
Trong phạm vi của doanh nghiệp, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có một lượng nhất định các yếu tố sản xuất như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, sức lao động,…. Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá, do đó để có được các yếu tố nói trên đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tiền ứng trước nhất định, được gọi là vốn sản xuất kinh doanh [38]. Vậy có thể hiểu, vốn là lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về tài sản dùng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời. Gọi là số tiền ứng trước vì nếu doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả sẽ thu hồi lại được số vốn bỏ ra ban đầu và làm sinh lời vốn. Tài sản được hiểu là nguồn lực do DN kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Tài sản trong DN được biểu hiện dưới hình thái hữu hình như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hoá,… hoặc thể hiện dưới hình thái vô hình như quyền sử dụng đất, bản quyền, bằng sáng chế… Tài sản trong doanh nghiệp cũng có thể phân thành tài sản hiện vật (vật chất) như máy móc thiết bị, nhà xưởng … và các tài sản tài chính như chứng khoán và các giấy tờ có giá khác.
Vốn là một yếu tố cơ bản, là tiền đề không thể thiếu được của mọi quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời sử dụng vốn có hiệu quả là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự tăng trưởng của các DN và của nền kinh tế ở các nước đang phát triển như ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đối với toàn bộ nền kinh tế, vốn được ví như “máu” trong một cơ thể sống. Theo Mác: vốn là giá trị đem lại lợi nhuận [14]. Biểu hiện cụ thể của vốn trong các DN là tài sản mà DN sở hữu hoặc kiểm soát.
Ở nước ta hiện nay, khái niệm về vốn cũng được hiểu khác nhau. Một số cho rằng vốn là số tiền đầu tư ứng trước vào tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn của DN. Cụ thể hơn vốn là biểu hiện bằng tiền giá trị của tài sản dài hạn và tài sản ngắn hạn của DN. Một số khác có quan điểm cho rằng vốn gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Quan điểm này có sự đồng nhất giữa vốn và nguồn vốn. Họ cho rằng vốn và nguồn vốn chỉ là những cách gọi khác nhau để chỉ ra nguồn vốn của tài sản trong DN. Theo tác giả, vốn và nguồn vốn là hai mặt của cùng một lượng tài sản do DN quản lý, sử dụng; trong đó vốn là biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản của DN, còn nguồn vốn chỉ ra nguồn gốc hình thành các tài sản này. Khi nói đến vốn tức là muốn nói đến giá trị những tài sản mà DN đang nắm giữ, sử dụng để phục vụ SXKD. Như vậy, trong phạm vi của luận văn nói đến hiệu quả sử dụng vốn có thể hiểu đồng nghĩa với hiệu quả sử dụng tài sản của DN.
Vốn trong doanh nghiệp có các đặc trưng sau:
- Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản, điều này có nghĩa là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản hữu hình và vô hình như nhà xưởng, đất đai, thiết bị, nguyên liệu, chất xám, thông tin, vị trí địa lý kinh doanh, nhãn hiệu thương mại, bản quyền phát minh sáng chế,…
- Vốn có giá trị về mặt thời gian, một đồng vốn ngày hôm nay có giá trị cao hơn một đồng vốn trong tương lai, bởi vì có thể đầu tư tiền của ngày hôm nay để thu được những khoản thu nhập trong tương lai. Tỷ lệ lãi suất là sự đo lường thời giá của tiền tệ, nó phản ảnh chi phí cơ hội mà người sử dụng vốn phải bỏ ra để thu lợi nhuận. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá chính xác hiệu quả của đầu tư.
- Vốn luôn vận động vì mục tiêu sinh lời. Nếu coi hình thái khởi đầu của vốn là tiền thì sau một quá trình vận động vốn có thể biến đổi qua các hình thái vật chất khác nhau, nhưng kết thúc chu kỳ vận động vốn lại trở lại trạng thái ban đầu là tiền. Theo quy luật, để DN tồn tại và phát triển thì lượng tiền này phải lớn hơn lượng tiền mà DN bỏ ra ban đầu, có nghĩa là DN phải có lợi nhuận.
- Vốn luôn gắn liền với một chủ sở hữu nhất định, không có vốn vô chủ, vì nó sẽ dẫn đến chi tiêu lãng phí và kém hiệu quả.
- Vốn được xem là một hàng hóa đặc biệt. Khác với hàng hoá thông thường, hàng hoá vốn được bán sẽ không bị mất quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử dụng, người mua được quyền sử dụng vốn trong thời gian nhất định và phải trả cho người sở hữu một khoản tiền được gọi là lãi. Như vậy, lãi suất là giá phải trả cho việc được quyền sử dụng vốn trong một thời kỳ nhất định. Việc mua bán diễn ra trên thị trường tài chính, giá mua bán vốn cũng tuân theo quan hệ cung - cầu trên thị trường.
Các đặc trưng của vốn cho thấy, vốn là nguồn lực có hạn cần phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả. Đây là vấn đề có tính chất nguyên lý, là cơ sở cho việc hoạch định chính sách quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn DN.
1.1.2. Sự vận động của vốn trong doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn thường xuyên chuyển hoá từ hình thái tiền tệ ban đầu sang các hình thái hiện vật, như: tư liệu sản xuất, sức lao động... hàng hoá và cuối cùng lại chuyển hoá về hình thái ban đầu. Nếu coi xuất phát điểm ban đầu của vốn là tiền tệ người ta có thể khái quát quá trình hoạt động của vốn trong DN bằng công thức [14]:
T - H ...... H' - T'
Quá trình luân chuyển của vốn biểu hiện như một quá trình vận động của giá trị, phản ánh về mặt giá trị của quá trình sản xuất kinh doanh. Ứng với ba giai đoạn luân chuyển vốn trong công thức này là ba giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh bao gồm:
Giai đoạn I ( T - H): DN mua các yếu tố đầu vào cho quá trình SXKD như tư liệu sản xuất, thuê mướn, đào tạo nhân công,... Trong giai đoạn này vốn ứng ra ban đầu dưới hình thái tiền tệ (T) được chuyển sang hình thái hiện vật là tư liệu sản xuất và sức lao động (H) khi DN mua tư liệu sản xuất và thuê lao động.
Giai đoạn II (H...H'): đây là giai đoạn DN sử dụng các yếu tố đầu vào kết hợp với công nghệ và kỹ năng của công nhân để sản xuất sản phẩm phục vụ cho tiêu thụ ở giai đoạn sau. Trong giai đoạn này, vốn từ hình thái tư liệu sản xuất (H) chuyển sang hình thái thành phẩm (H') thông qua quá trình sản xuất.
Giai đoạn III (H' - T'): DN tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra thu được tiền, vốn kết thúc quá trình vận động trở về trạng thái ban đầu là tiền. Để DN có thể phát triển và tiếp tục SXKD tức là vốn tiếp tục vận động ở các chu kì sau, thì lượng tiền thu được ở giai đoạn này phải lớn hơn lượng tiền mà DN bỏ ra ban đầu ở giai đoạn mua hàng, có nghĩa là DN kinh doanh có lãi.
1.1.3. Phân loại vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Có nhiều cách phân loại vốn, sau đây chỉ xem xét một số cách phân loại vốn chủ yếu, có liên quan nhiều đến nội dung phân tích hiệu quả sử dụng vốn của DN.
1.1.3.1. Phân loại vốn theo quan hệ sở hữu
Theo quan hệ sở hữu, vốn của DN được phân thành vốn chủ sở hữu và nợ.
- Vốn chủ sở hữu: là phần vốn thuộc quyền sở hữu của DN, bao gồm các bộ phận chủ yếu: vốn góp ban đầu; lợi nhuận không chia; vốn tăng thêm bằng phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo hình thức sở hữu của DN mà tính chất và hình thức tạo vốn của từng DN là khác nhau. Đối với DN Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Vốn góp ban đầu của công ty cổ phần là vốn do các cổ đông đóng góp. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn là do các thành viên của công ty đóng góp. Đối với DN tư nhân là chủ DN bỏ vốn... Vốn chủ sở hữu được xác định như sau:
Vốn chủ sở hữu = Tài sản DN - Nợ phải trả
- Nợ: là số vốn mà DN đi vay, chiếm dụng của tổ chức, cá nhân khác và do vậy DN phải có trách nhiệm thanh toán. DN có thể vay ngân hàng, sử dụng tín dụng thương mại... Theo thời gian thanh toán, nợ được chia thành nợ ngắn hạn, nợ trung hạn và nợ dài hạn. Thông thường, nợ ngắn hạn là khoản nợ mà DN có trách nhiệm thanh toán trong thời hạn 1 năm, nợ trung hạn từ 1 đến 3 năm và nợ dài hạn từ 3 năm trở lên.
Cách phân loại vốn theo quan hệ sở hữu vốn có ý nghĩa quan trọng đối với DN trong việc thiết lập cơ cấu vốn hợp lý, vì DN sử dụng vốn chủ sở hữu hay nợ để tài trợ cho hoạt động của mình đều phải chịu chi phí sử dụng vốn. Chi phí sử dụng vốn là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Chi phí sử dụng vốn có thể xem như tỷ xuất sinh lợi mà DN phải tạo ra từ những dự án đầu tư để đảm bảo duy trì giá cổ phiếu trên thị trường hoặc có thể hiểu như mức tỷ suất sinh lời tối thiểu mà các nhà cung ứng vốn trên thị trường yêu cầu nhằm đảm bảo sự cung ứng vốn của họ đối với DN. Mỗi DN có một cơ cấu vốn tối ưu cho phép DN tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn và tối đa hoá giá trị của DN.
1.1.3.2. Phân loại vốn theo công dụng kinh tế
Theo công dụng kinh tế, vốn của DN được chia thành vốn cố định, vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính.
- Vốn cố định là lượng tiền ứng trước để mua sắm, xây dựng tài sản cố định và các khoản đầu tư dài hạn dùng vào hoạt động kinh doanh của DN. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh như máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc... đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn sau: về thời gian: có thời gian sử dụng từ một năm trở lên; về giá trị: ở nước ta hiện nay tài sản cố định phải có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên.
- Vốn lưu động là lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về tài sản ngắn hạn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của DN. Tài sản ngắn hạn là những tài sản thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh như: nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, thành phẩm, hàng hoá, các khoản phải thu...
- Vốn đầu tư tài chính của DN là một bộ phận vốn kinh doanh của DN được đầu tư ra bên ngoài nhằm mục đích sinh lời.
Có nhiều hình thức đầu tư tài chính ra bên ngoài như: DN bỏ vốn mua cổ phiếu, trái phiếu của các công ty khác, hoặc góp vốn liên doanh với các DN khác,... Mục đích của đầu tư tài chính ra bên ngoài là nhằm thu lợi nhuận và đảm bảo an toàn về vốn nhờ đa dạng hoá đầu tư.
Phân loại vốn theo cách này có ý nghĩa quan trọng đối với DN trong việc lựa chọn loại nguồn vốn thích hợp với từng loại tài sản cần tài trợ, trong việc đề ra các biện pháp quản lý vốn thích hợp, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và bảo toàn số vốn đã bỏ ra.
1.1.3.3. Phân loại vốn theo nguồn huy động
Căn cứ vào phạm vi huy động các nguồn vốn, vốn của DN có thể chia thành nguồn vốn bên trong DN và nguồn vốn bên ngoài DN.
- Nguồn vốn bên trong DN là nguồn vốn có thể huy động được từ hoạt động của bản thân DN. Đó là tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận chưa phân phối, các khoản dự phòng... Nguồn vốn bên trong DN có ý nghĩa hết sức quan trọng giúp cho DN tự chủ trong việc sử dụng vốn này, đồng thời tiết kiệm chi phí sử dụng vốn.
- Nguồn vốn bên ngoài DN là nguồn vốn có thể huy động được từ bên ngoài DN để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Đó là vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ phải trả.
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn bên ngoài rất đa dạng và các hình thức huy động cũng rất phong phú. Mỗi hình thức huy động vốn từ bên ngoài đều có một số thuận lợi và khó khăn nhất định, tạo cho DN có một cơ cấu vốn linh hoạt, kịp thời đáp ứng được nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông thường DN có mức doanh lợi cao thì sử dụng nguồn vốn bên ngoài sẽ đem lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, khi huy động vốn từ bên ngoài thì thường phải có tài sản thế chấp và DN phải trả lãi tiền vay. Nếu DN sử dụng vốn kém hiệu quả thì lãi tiền vay sẽ trở thành gánh nặng mà DN phải chịu.
Với cách phân loại này, cho phép DN lựa chọn các phương án huy động vốn sao cho phù hợp với điều kiện kinh doanh của mình trong phạm vi khuôn khổ pháp luật cho phép.
1.1.4. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Vốn có vai trò rất quan trọng đối với DN, là yếu tố không thể thiếu của mọi quá trình kinh doanh. Vai trò quan trọng của vốn đã được Các Mác khẳng định: Tư bản đứng ở vị trí hàng đầu, vì tư bản tạo ra giá trị thặng dư.
Trong nền kinh tế thị trường muốn tiến hành hoạt động kinh doanh, DN phải có vốn. Vốn là điều kiện để thực hiện các hoạt động tạo nguồn vì thế các chiến lược hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ trở thành hiện thực nếu được đảm bảo bằng vốn.
Như vậy, có thể nói vốn có vai trò quyết định quy mô của DN, quyết định năng lực sản xuất của DN. Vốn càng lớn thì quy mô DN càng lớn, nâng cao khả năng tài chính của DN, tạo điều kiện hiện đại hoá công nghệ, nâng cao trình độ của người lao động, nâng cao năng lực sản xuất của DN.
Vốn có vai trò nâng cao vị thế, uy tín của DN, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình hợp tác phát triển của DN. Quy mô của DN càng lớn sẽ tạo điều kiện để thực hiện mở rộng thị trường trong và ngoài mước, tạo lợi thế trong cạnh tranh, là điều kiện tồn tại và phát triển của DN.
Vốn còn tạo điều kiện cho DN tham gia tốt các chính sách xã hội, các đóng góp với chính phủ, góp phần vào phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, công tác quản lý và sử dụng vốn sao cho hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động quản lý của DN.
1.1.5. Quá trình huy động, tạo vốn trong doanh nghiệp
Quá trình huy động, tạo vốn trong DN đòi hỏi xác định được nhu cầu vốn cần huy động trong từng thời kỳ nhất định, từ đó phân tích lựa chọn các hình thức huy động vốn phù hợp.
1.1.5.1 Xác định cơ cấu vốn
Cơ cấu vốn là sự kết hợp của nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu được sử dụng để tài trợ cho tài sản của DN. Các nhân tố chính cần phải xem xét khi xác định cơ cấu vốn là:
-Rủi ro kinh doanh: rủi ro kinh doanh là rủi ro cố hữu trong tài sản của DN trong trường hợp DN không sử dụng nợ.
Rủi ro kinh doanh phụ thuộc vào các nhân tố chủ yếu như: chi phí cố định của DN, khả năng thay đổi của cầu, khả năng biến thiên của giá bán, khả năng biến thiên của giá đầu vào, khả năng điều chỉnh giá đầu ra khi giá đầu vào thay đổi.
- Thuế thu nhập DN: chi phí sử dụng nợ vay là chi phí sau thuế. Giả sử gọi Kd là chi phí nợ vay sau thuế, I là lãi suất nợ vay, T là thuế suất thuế thu nhập DN, lúc đó Kd = I(1- T). Nếu thuế suất thuế thu nhập DN càng cao thì càng hạ thấp chi phí thực tế của nợ (Kd càng thấp). Khi sử dụng nợ, DN tiết kiệm được một khoản bằng lãi suất vay nợ nhân với thuế suất thuế thu nhập DN (I * T). Vì vậy, thuế suất càng cao sẽ khuyến khích DN sử dụng nợ do phần tiết kiệm nhờ thuế tăng lên.
- Khả năng linh hoạt tài chính: là khả năng điều chỉnh nguồn vốn tăng hay giảm đáp ứng với các thay đổi quan trọng trong nhu cầu vốn. DN cần duy trì được tính linh hoạt tài chính nhằm đảm bảo cho DN vẫn có thể huy động được vốn một cách hợp lý trong điều kiện có tác động xấu, bởi vì quyết định huy động vốn ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng đến khả năng lựa chọn phương thức huy động vốn trong tương lai.
- Quan điểm của các nhà quản lý: việc xác định cơ cấu vốn mục tiêu của DN còn phụ thuộc vào quan điểm của các nhà quản lý. Thực tế, có một số nhà quản lý sẵn sàng sử dụng nhiều nợ hơn; trong khi đó, một số nhà quản lý khác lại muốn sử dụng vốn chủ sở hữu.
1.1.5.2 Lựa chọn và quyết định hình thức huy động vốn
Để lựa chọn và quyết định hình thức huy động vốn phù hợp, trước hết cần phải xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của DN trong kỳ kế hoạch. Nghĩa là trong mỗi kỳ kế hoạch phải xác định rõ DN cần bao nhiêu vốn cho những việc gì. Việc xác định nhu cầu vốn phải dựa trên các cơ sở tính toán chính xác, có căn cứ khoa học. Đặc biệt, DN phải tập trung nhu cầu vốn do tìm được cơ hội kinh doanh mới cần đầu tư.
DN cần xác định nhu cầu vốn trong thời kỳ dài hạn và từng thời kỳ ngắn hạn. Đồng thời phải xác định được nhu cầu từng loại vốn cố định, vốn lưu động là bao nhiêu. Cụ thể hơn là xác định nhu cầu vốn cho mỗi hình thức, dự án đầu tư là bao nhiêu.v.v..
Khi đã xác định lượng tiền cần huy động, tiếp đến là lựa chọn các hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của DN được thực hiện một cách liên tục với chi phí sử dụng vốn thấp nhất, rủi ro thấp nhất. Việc lựa chọn hình thức huy động vốn trong các DN nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào một loạt các nhân tố như: trạng thái của nền kinh tế; triển vọng của thị trường vốn; ngành nghề kinh doanh hay lĩnh vực huy động của DN; quy mô, loại hình của DN; chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của DN; uy tín của DN và khả năng thích ứng trong các tình huống cụ thể của người quản lý.v.v..
Phân tích và lựa chọn hình thức huy động vốn thích hợp trong từng kỳ kế hoạch, cần phải xem xét các vấn đề sau: cơ cấu tài chính mà DN đã chọn; chi phí sử dụng vốn của từng nguồn vốn huy động cụ thể; tình hình thị trường tài chính và các điều kiện để DN có thể huy động được vốn theo từng hình thức huy động; khả năng đáp ứng của mỗi nguồn vốn huy động cụ thể.
Tuỳ theo từng loại hình DN và đặc điểm cụ thể mà có thể có các hình thức huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các hình thức huy động vốn của DN cần được đa dạng hóa nhằm khai thác tốt nhất các nguồn vốn trong nền kinh tế. DN có thể lựa chọn các hình thức huy động vốn chủ yếu sau đây:
1.1.5.2.1. Hình thức tự tài trợ (tự cung ứng vốn)
Hình thức tự tài trợ là hình thức DN tự đáp ứng nhu cầu vốn của mình bằng nguồn vốn do DN tạo ra trong quá trình hoạt