Luận văn Giải pháp phát triển văn hoá doanh nghiệp tại thành phố Đà Lạt đến năm 2020

Văn hoá doanh nghiệp chính là tài sản vô hình của mỗi doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp là một việc làm hết sức cần thiết nhưng cũng không ít khó khăn. Văn hoá doanh nghiệp có vị trí và vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của mỗi doanh nghiệp, bởi bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu thiếu đi yếu tố văn hoá, ngôn ngữ, tư liệu, thông tin nói chung được gọi là tri thức thì doanh nghiệp đó khó có thể đứng vững và tồn tại được. Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO, do vậy mọi hoạt động của nền kinh tế theo “sân chơi” chung của thế giới với những luật lệ mới, cho nên các doanh nghiệp cũng phải đủ mạnh để tự tin và hoà nhập. Ngày nay, doanhnghiệp Việt Nam đang đứng trước những cơ hội mới. Toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp phải có những lựa chọn đúng đắn và sáng suốt. Không thể để xảy ra tình trạng quốc tế hóa văn hóa doanh nghiệp, mà phải trên cơ sở văn hóa Việt Nam để thu hút tinh hoa của nhân loại, sáng tạo ra văn hóa doanh nghiệp nhưng phù hợp với tình hình và bản sắc văn hóa Việt Nam. Quá trình toàn cầu hóa đem đến cho các doanh nghiệp Việt Nam rất nhiều cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với không ít thách thức. Nền thị trường đầy biến động, cạnh tranh ngày càng gay gắt, để có thể đứng vững, tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh đó, các doanh nghiệp cần phải biết phát huy mọi nguồn lực của mình. Cùng với vốn, cở sở vật chất, khoa học kỹ thuật thì vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp là vấn đề cần quan tâm nhất hiện nay của mọi _ 2_ doanh nghiệp bởi vì khi xây dựng doanh nghiệp, nhiều người chỉ chú trọng đến vấn đề cơ cấu, tổ chức, nhân sự và thị trường. Có người lại chỉ coi trọng yếu tố giao tiếp làm mục tiêu để xây dựng văn hoá. Nhưng đó mới chỉ là một phần để đánh giá về sự hoạt động của doanh nghiệp và là một phần để cấu thành văn hoá doanh nghiệp. Những ai nhận thức sâu sắc về giá trị của một doanh nghiệp tồn tại thì phải đánh giá về cái gọi là: tầm nhìn, sứ mệnh và giá trị cốt lõi của doanh nghiệp đó. Vì vậy cần coi văn hoá doanh nghiệp như là tôn chỉ mục đích của doanh nghiệp, vì nó sẽ đảm bảo sự trường tồn của doanh nghiệp, là tâm niệm về mục đích sống của doanh nghiệp đó. Vì những lý do đó tôi chọnđề tài “Giải pháp phát triển văn hoá doanh nghiệp tại thành phố Đà Lạt đến năm 2020” làm luận văn tốt nghiệp cao học.

pdf90 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển văn hoá doanh nghiệp tại thành phố Đà Lạt đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
_ 1 _ PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Văn hoá doanh nghiệp chính là tài sản vô hình của mỗi doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp là một việc làm hết sức cần thiết nhưng cũng không ít khó khăn. Văn hoá doanh nghiệp có vị trí và vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của mỗi doanh nghiệp, bởi bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu thiếu đi yếu tố văn hoá, ngôn ngữ, tư liệu, thông tin nói chung được gọi là tri thức thì doanh nghiệp đó khó có thể đứng vững và tồn tại được. Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO, do vậy mọi hoạt động của nền kinh tế theo “sân chơi” chung của thế giới với những luật lệ mới, cho nên các doanh nghiệp cũng phải đủ mạnh để tự tin và hoà nhập. Ngày nay, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những cơ hội mới. Toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp phải có những lựa chọn đúng đắn và sáng suốt. Không thể để xảy ra tình trạng quốc tế hóa văn hóa doanh nghiệp, mà phải trên cơ sở văn hóa Việt Nam để thu hút tinh hoa của nhân loại, sáng tạo ra văn hóa doanh nghiệp nhưng phù hợp với tình hình và bản sắc văn hóa Việt Nam. Quá trình toàn cầu hóa đem đến cho các doanh nghiệp Việt Nam rất nhiều cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với không ít thách thức. Nền thị trường đầy biến động, cạnh tranh ngày càng gay gắt, để có thể đứng vững, tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh đó, các doanh nghiệp cần phải biết phát huy mọi nguồn lực của mình. Cùng với vốn, cở sở vật chất, khoa học kỹ thuật… thì vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp là vấn đề cần quan tâm nhất hiện nay của mọi _ 2 _ doanh nghiệp bởi vì khi xây dựng doanh nghiệp, nhiều người chỉ chú trọng đến vấn đề cơ cấu, tổ chức, nhân sự và thị trường. Có người lại chỉ coi trọng yếu tố giao tiếp làm mục tiêu để xây dựng văn hoá. Nhưng đó mới chỉ là một phần để đánh giá về sự hoạt động của doanh nghiệp và là một phần để cấu thành văn hoá doanh nghiệp. Những ai nhận thức sâu sắc về giá trị của một doanh nghiệp tồn tại thì phải đánh giá về cái gọi là: tầm nhìn, sứ mệnh và giá trị cốt lõi của doanh nghiệp đó. Vì vậy cần coi văn hoá doanh nghiệp như là tôn chỉ mục đích của doanh nghiệp, vì nó sẽ đảm bảo sự trường tồn của doanh nghiệp, là tâm niệm về mục đích sống của doanh nghiệp đó. Vì những lý do đó tôi chọn đề tài “Giải pháp phát triển văn hoá doanh nghiệp tại thành phố Đà Lạt đến năm 2020” làm luận văn tốt nghiệp cao học. 2. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu văn hóa doanh nghiệp trên địa bàn Tp.Đà Lạt nhằm tìm hiểu và phân tích đánh giá thực trạng văn hóa doanh nghiệp của các doanh nghiệp. Đồng thời đề xuất một số giải pháp về phát triển văn hóa doanh nghiệp tại thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020 nhằm góp phần hoàn thiện định hướng phát triển các doanh nghiệp một cách chủ động, toàn diện và bền vững. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Văn hóa doanh nghiệp trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Lạt. Phạm vi nghiên cứu: các vấn đề văn hoá doanh nghiệp trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Lạt thời gian từ năm 2006 – 2009 và định hướng phát triển Văn hóa tại các doanh nghiệp đến năm 2020. 4. Phương pháp nghiên cứu: Việc nghiên cứu và đánh giá các vấn đề trong đề tài chủ yếu dựa trên các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, vận dụng một cách tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. - Phương pháp chuyên gia: Khảo sát hiện trạng - thu thập và xử lý các thông tin, mô tả các số liệu… _ 3 _ 5. Cấu trúc của đề tài: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về văn hóa doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng về văn hoá trong doanh nghiệp tại thành phố Đà Lạt thời gian từ năm 2006 – 2009. Chương 3: Giải pháp phát triển Văn hoá doanh nghiệp trong các doanh nghiệp tại thành phố Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020. _ 4 _ Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP 1.1. Khái niệm về văn hóa, văn hoá kinh doanh: 1.1.1. Văn hoá Văn hoá là hoạt động tinh thần nhằm phát huy những năng lực bẩm sinh và bản chất của con người để sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần dựa trên các chuẩn mực: chân, thiện, mỹ nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội. Văn hóa cũng là hoạt động nhằm tạo ra những giá trị, những chuẩn mực xã hội, là môi trường thứ hai, cái nôi nuôi dưỡng sự hình thành nhân cách con người. Theo nhà nhân chủng học E.B Tylor nêu: “văn hoá là một tổng thể phức tạp bao gồm các kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục và toàn bộ những kỹ năng, thói quen mà con người đạt được với tư cách là thành viên của một xã hội”; ông Frederico Mayor, tổng giám đốc UNESCO đã định nghĩa: “văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động”. Để tạo điều kiện cho định hướng tiếp cận văn hóa, năm 1977 UNESCO đã cho xuất bản tác phẩm Hiểu biết để hành động, trong đó có đoạn viết: “Văn hóa là yếu tố cơ bản cho sức sống một dân tộc, từ những hoạt động sáng tạo của nhân dân đến sức sống tổng hợp của một xã hội, những phương thức sản xuất và sở hữu, những của cải vật chất, những hình thái tổ chức…” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt _ 5 _ hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh: toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, t3, trang 431). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã miêu tả văn hóa bằng những thành tố của nó. Người đã nhìn văn hóa là phương thức để con người tồn tại và phát triển. Văn hóa có mặt trong tất cả các hoạt động của con người, dù đó là hoạt động sản xuất vật chất hay sản xuất giá trị tinh thần, trong quan hệ giao tiếp, ứng xử trong xã hội hay thái độ ứng xử với thiên nhiên. Các nhà xã hội học chia văn hoá thành hai dạng: văn hoá cá nhân và văn hoá cộng đồng. Văn hoá cá nhân là toàn bộ vốn tri thức, kinh nghiệm tích luỹ vào mỗi cá nhân, biểu hiện ở hệ thống quan niệm và hành xử của cá nhân ấy trong đời sống thực tiễn. Văn hoá cộng đồng là văn hoá của một nhóm xã hội, nó không phải là số cộng giản đơn của văn hoá cá nhân - thành viên của cộng đồng xã hội ấy. Trong hoạt động doanh nghiệp thì “văn hoá doanh nhân” là thuộc dạng văn hoá cá nhân, còn “văn hóa doanh nghiệp” là thuộc dạng văn hoá cộng đồng. Thực chất văn hoá là hệ thống các giá trị được sản sinh ra trong xã hội nhất định, được đặc trưng bởi hình thái kinh tế xã hội nhất định, bao gồm cả giá trị vật chất và tinh thần. Con người luôn vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ đó là văn hoá, văn hoá có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ cộng đồng. Nội lực của một dân tộc trước hết là mọi nguồn lực tập hợp từ vốn văn hoá truyền thống đã tích luỹ trong lịch sử của chính dân tộc đó. Văn hoá được phân thành văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần hay nói đúng hơn theo cách phân loại này có văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể. Văn hoá và kinh doanh lại có mối quan hệ qua lại gắn bó mật thiết với nhau: văn hoá và kinh doanh đều có mục tiêu chung là phục vụ con người, văn hoá là nguồn lực lớn cho kinh doanh, tuy nhiên mục tiêu ngắn hạn của văn hoá và kinh doanh lại có thể trái ngược nhau, nếu kinh doanh chỉ chạy theo lợi nhuận trước mắt thì sẽ gây tác hại cho văn hoá, xói mòn bản sắc văn hoá dân tộc, khi _ 6 _ nền văn hoá mang những yếu tố không phù hợp sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển của kinh doanh. Bởi vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. 1.1.2. Văn hoá kinh doanh: Trong hội nhập kinh tế thế giới đã nhấn mạnh đến yếu tố Văn hóa trong kinh doanh, thuật ngữ VHKD mới chỉ xuất hiện thập kỷ 90 của thế kỷ trước. VHKD là các giá trị văn hoá thể hiện trong hình thức mẫu mã và chất lượng sản phẩm, trong thông tin quảng cáo về sản phẩm, trong cửa hàng bày bán sản phẩm, trong cách giao tiếp ứng xử của người bán đối với người mua, trong tâm lý và thị hiếu tiêu dùng, rộng ra là trong cả quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh với toàn bộ các khâu, các điều kiện liên quan của nó… nhằm tạo ra những chất lượng - hiệu quả kinh doanh nhất định. Nếu căn cứ vào tính cố hữu, mức độ thay đổi được của hệ thống các giá trị văn hoá trong kinh doanh thì có thể nói, VHKD của một quốc gia được cấu thành bởi ba yếu tố là: văn hoá doanh nhân (trình độ, năng lực, đạo đức nghề nghiệp, phẩm hạnh làm người… của những người tham gia sản xuất kinh doanh), văn hoá thương trường (tính chất của sự cạnh tranh, cơ cấu tổ chức, hệ thống pháp chế… liên quan đến môi trường kinh doanh của một quốc gia) và văn hoá doanh nghiệp - bộ phận có vai trò, vị trí mang tính quyết định, là đầu mối trung tâm của quá trình xây dựng VHKD. Như vậy, ngoài những đặc trưng của văn hoá (tính tập quán, tính cộng đồng cao, tính dân tộc, tính lịch sử, tính tiến hoá, tính chủ quan, tính khách quan (được hình thành từ quá trình lịch sử tất yếu), tính kế thừa, và tính có thể học hỏi được). Nói chung, VHKD còn mang một số đặc trưng khác: VHKD xuất hiện cùng với sự xuất hiện của hàng hoá và thị trường, VHKD luôn phù hợp với trình độ kinh doanh của Quốc gia. Tiến sĩ Võ Quang Trọng - Viện nghiên cứu văn hóa: Nói đến văn hóa doanh nhân là đề cập đến cái đẹp, cái đúng, cái tốt, cái lợi. Mục đích kiếm tiền phải hướng tới các giá trị văn hóa. Hay nói cách khác thì ngoài lợi ích kinh tế _ 7 _ còn có sự giao tiếp ứng xử giữa con người với con người. Khi nói văn hóa doanh nhân cũng có nghĩa là người kinh doanh có văn hóa. Và bản chất của văn hóa trong kinh doanh gắn với văn hóa đạo đức. Kinh doanh phải trung thực, không chạy theo lợi ích cá nhân để dối trá, lừa đảo, kinh doanh phải có trách nhiệm với xă hội. 1.2. Văn hoá doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm Văn hoá doanh nghiệp được hiểu là toàn bộ các quy tắc ứng xử, cách nghĩ, chuẩn mực, đường lối kinh doanh... có tác dụng đặt dấu ấn tới hành vi, thái độ, niềm tin và quan hệ của các thành viên, cao hơn nữa là hình ảnh của một doanh nghiệp trên thương trường. Văn hoá doanh nghiệp là một khái niệm mới xuất hiện gần đây trong hệ thống các thuật ngữ kinh tế, xã hội và quản lý. Đồng thời với sự xuất hiện này là rất nhiều quan điểm về định nghĩa và cách tiếp cận khác nhau về khái niệm này. Doanh nghiệp tồn tại là để sản xuất của cải vật chất và làm dịch vụ. Mọi hoạt động sản xuất đều gắn liền với một dây chuyền công nghệ nhất định. Để vận hành được các khâu của dây chuyền này, trong DN phải có hệ thống tổ chức, quản lý thật chặt chẽ từ khâu đầu đến khâu cuối. Điều này có nghĩa là trong các hoạt động của DN, mọi người đều phải tuân theo những giá trị – chuẩn mực cụ thể nào đó và thực hiện theo những “khuôn mẫu văn hoá” nhất định. Như vậy, mỗi DN hoặc tổ chức kinh doanh là một không gian văn hoá. VHDN là toàn bộ giá trị văn hoá được gây dựng nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một DN, trở thành các giá trị, các quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu vào hoạt động của DN ấy và chi phối tình cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên của DN trong việc theo đuổi và thực hiện các mục đích. Toàn bộ những giá trị tinh thần mà DN tạo ra trong quá trình SXKD tác động tới tình cảm, lý trí và hành vi của các thành viên cũng như sự phát triển bền vững của DN. VHDN gắn với đặc điểm từng dân tộc, trong từng giai đoạn phát triển cho đến từng doanh nhân, từng người lao động, do đó, rất phong phú, đa dạng. Song văn hoá doanh nghiệp cũng không phải là vô hình, khó nhận biết mà rất _ 8 _ hữu hình, thể hiện rõ một cách vật chất, chẳng những trong hành vi kinh doanh giao tiếp của công nhân, cán bộ trong DN, mà cả trong hàng hoá và dịch vụ của DN, từ mẫu mã, kiểu dáng đến nội dung và chất lượng. VHDN là cơ sở của toàn bộ các chủ trương, biện pháp cụ thể trong SXKD của DN, chi phối kết quả SXKD của DN. Khái niệm văn hóa lại được đề cập nhiều trong thực tế đời sống chúng ta hiện nay. Bởi vì khi nói đến văn hóa là nói đến ý thức, cái gốc tạo nên tính người cũng những gì thuộc về bản chất làm cho con người trở nên năng động, sáng tạo trong cuộc sống trong sản xuất kinh doanh. Văn hóa còn là nội lực để con người điều chỉnh cải tạo cuộc sống. Văn hóa có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như một tổ chức, một xã hội. Nhà xã hội học người Mỹ E.H. Schein đưa ra định nghĩa: “VHDN là tổng thể những thủ pháp và quy tắc giải quyết vấn đề thích ứng bên ngoài và thống nhất bên trong các nhân viên, những quy tắc đã tỏ ra hữu hiệu trong quá khứ và vấn đề cấp thiết trong hiện tại. Những quy tắc và những thủ pháp này là yếu tố khởi nguồn trong việc các nhân viên lựa chọn phương thức hành động, phân tích và ra quyết định thích hợp. Các thành viên của tổ chức DN không đắn đo suy nghĩ về ý nghĩa của những quy tắc và thủ pháp ấy, mà coi chúng là đúng đắn ngay từ đầu. VHDN là một hệ thống những ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo, nhận thức và phương pháp tư duy được mọi thành viên của một tổ chức đồng thuận và có ảnh hưởng ở phạm vi rộng đến cách thức hành động của các thành viên, đó là tổng hợp những quan niệm chung mà các thành viên trong công ty học được trong quá trình giải quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề với môi trường xung quanh. Điều đó có nghĩa là trong DN tất cả các thành viên đều gắn bó với nhau bởi những tiêu chí chung trong hoạt động kinh doanh. Chức năng chủ yếu của VHDN là tạo nên sự thống nhất của mọi thành viên trong DN. Ngoài ra, văn hoá doanh nghiệp còn đảm bảo sự hài hoà giữa lợi ích tập thể với lợi ích cá nhân và giúp cho mỗi cá nhân thực hiện vai trò của mình theo đúng định hướng chung của DN. Nhìn chung, VHDN động viên nghị lực và ý chí của các thành viên trong DN và hướng tinh thần đó vào việc phấn đấu cho mục đích của DN. Mọi tổ chức đều có văn hóa và những giá trị độc đáo riêng của nó. Hầu _ 9 _ hết các tổ chức đều không tự ý thức là phải cố gắng để tạo ra một nền văn hóa nhất định của mình. Văn hóa của một tổ chức thường được tạo ra dựa trên những tiêu chuẩn của những người điều hành đứng đầu hay những người sáng lập ra tổ chức đó. Như vậy, nội dung của văn hoá doanh nghiệp không phải là một cái gì đó tự nghĩ ra một cách ngẫu nhiên, nó được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh thực tiễn, trong quá trình liên hệ, tác động qua lại và có quan hệ, như một giải pháp cho những vấn đề mà môi trường bên trong và bên ngoài đặt ra cho DN. VHDN thể hiện được những nhu cầu, mục đích và phương hướng hoạt động kinh doanh của DN, tạo cho DN có được màu sắc riêng, tức là nhân cách hóa DN đó. VHDN là cơ sở của toàn bộ các chủ trương, biện pháp cụ thể trong sản xuất kinh doanh của DN, chi phối kết quả kinh doanh của DN. Chính vì vậy, có thể nói thành công hoặc thất bại của các DN đều gắn với việc có hay không có văn hoá doanh nghiệp theo đúng nghĩa của khái niệm này. Những thành công của doanh nghiệp có bền vững hay không là nhờ vào nền VHDN rất đặc trưng của mình. Bên cạnh vốn, chiến lược kinh doanh thì sức mạnh của văn hoá doanh nghiệp đã bám sâu vào trong từng nhân viên, làm nên sự khác biệt giữa doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh. Sự khác biệt đó được thể hiện ra ở những tài sản vô hình như: sự trung thành của nhân viên, bầu không khí của doanh nghiệp như một gia đình nhỏ, tệ quan liêu bị đẩy lùi và không còn đất để tồn tại, xoá bỏ sự lề mề trong quá trình thảo luận và ra các quyết định quản lý, sự tin tưởng của nhân viên vào các quyết định và chính sách của doanh nghiệp, tinh thần đồng đội trong mọi công việc của doanh nghiệp... Sự cống hiến, lòng tận tụy và trung thành của từng nhân viên trong doanh nghiệp, nền văn hoá doanh nghiệp đã mang lại lợi thế cạnh tranh vô cùng quan trọng. VHDN tạo nên sự khác biệt, đồng thời VHDN là một giá trị tinh thần và là một tài sản vô hình của doanh nghiệp. Văn hoá doanh nghiệp bao gồm các yếu tố pháp luật và đạo đức. Văn hoá doanh nghiệp không thể hình thành một cách tự phát mà phải được hình thành thông qua nhiều hoạt động của bản thân mỗi doanh nghiệp, mỗi doanh nhân, của Nhà nước và các tổ chức xã hội. _ 10 _ Tóm lại, có thể hiểu văn hóa doanh nghiệp bao gồm các giá trị, chuẩn mực, niềm tin, sự thừa nhận, đồng thời là lịch sử, các nghi lễ, và các yếu tố khác cấu thành lên doanh nghiệp như: logo, bảng hiệu, trụ sở… tất cả các yếu tố này tồn tại khách quan trong quá trình hoạt động, phát triển của doanh nghiệp và nó chi phối các hành vi và ứng xử của các thành viên trong doanh nghiệp. Mỗi người hiểu văn hoá doanh nghiệp theo một cách, nhưng dù là theo cách nào đi nữa, cũng không ngoài mục đích cuối cùng là tạo ra một niềm tin đối với khách hàng, tạo môi trường làm việc tốt nhất, thuận lợi nhất, tạo niềm tin cho nhân viên, để họ làm việc tốt hơn và gắn bó với công ty. Như vậy, xây dựng văn hoá doanh nghiệp không đơn thuần là liệt kê ra các giá trị mình mong muốn mà đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả các thành viên, sự khởi xướng, cổ vũ, động viên của lãnh đạo. Như vậy: Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ những nhân tố văn hoá được doanh nghiệp chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh, tạo nên bản sắc kinh doanh của doanh nghiệp đó. 1.2.2. Các cấp độ của Văn hóa doanh nghiệp: Văn hoá doanh nghiệp được hình thành từ mỗi con người đang hoạt động trong doanh nghiệp và bản thân họ là những tế bào của một nền văn hoá, chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ nền văn hoá dân tộc. VHDN thể hiện trong hành vi giao tiếp của công nhân, cán bộ trong DN, mà cả trong hành hoá và dịch vụ của DN, từ mẫu mã, kiểu dáng đến nội dung và chất lượng. Những tính chất của VHDN được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng thường hướng tới việc hình thành một tập hợp các khuôn mẫu hành vi được áp dụng trong các mối quan hệ xã hội trong tổ chức. Những khuôn mẫu hành vi này có thể được sử dụng để phản ánh bản sắc VHDN. Văn hoá trong một DN tồn tại ở ba cấp độ: 1.2.2.1. Cấp độ thứ nhất: Cấp độ bề mặt biểu hiện cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp là những gì mọi người có thể dễ dàng nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy ví dụ như phong cách, màu sắc, kiểu dáng kiến trúc, thiết kế, hành vi, trang phục, biểu tượng, lễ nghi, ngôn ngữ… những biểu trưng trực quan này thể hiện những giá trị thầm kín hơn nằm sâu bên trong hệ thống tổ chức mà mỗi _ 11 _ thành viên và những người hữu quan có thể cảm nhận được; Nhóm này được ví là vòng bên ngoài cùng của cây gỗ. Các yếu tố của nhóm này dễ nhìn thấy. Xếp vào nhóm này là các yếu tố liên quan đến cách kiến trúc trụ sở của doanh nghiệp, cách tổ chức không gian làm việc, trang phục của thành viên trong doanh nghiệp, dòng chảy thông tin trong tổ chức đi như thế nào, ngôn ngữ sử dụng trong các thông điệp... Nếu doanh nghiệp đưa ra tuyên bố về giá trị mà doanh nghiệp đề cao là sự hợp tác, chia xẻ. Nhưng kiến trúc trụ sở lại toát lên sự đề cao quyền uy, không gian làm việc bị xẻ nhỏ, đóng kín, nhà để xe thì lộn xộn, tùy tiện... Sự hiện diện như vậy của các yếu tố hữu hình như vậy cho thấy rõ ràng các giá trị mà lãnh đạo doanh nghiệp muốn đề cao chưa được các thành viên chia sẻ, áp dụng. Hoặc, nó chưa được lãnh đạo và cấp quản lý trung gian chuyển tải vào các hoạt động của doanh nghiệp. Ngược lại, trong điều kiện môi trường bên ngoài thay đổi, thì nhóm yêu tố vòng ngoài cùng này sẽ chịu tác động trước hết và nói dễ thay đổi hơn các nhóm ở vòng trong. Khi các nhóm ở các vòng bên ngoài so với lõi trong cùng thay đ
Tài liệu liên quan