Luận văn Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty 789-BQP

Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất tạo ra cơ sở kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, sử dụng lượng vốn tích luỹ rất lớn của xã hội, đóng góp đáng kể vào GDP, là điều kiện thu hút vốn nước ngoài trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong xu hướng phát triển chung, đặc biệt trong cơ chế thị trường, lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản có tốc độ phát triển nhanh chưa từng có ở nước ta. Điều đó có nghĩa là vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng tăng lên. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao quản lý vốn có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí thất thoát trong điều kiện sản xuất xây dựng cơ bản trải qua nhiều khâu (thiết kế, dự toán, thi công, nghiệm thu .)địa bàn sản xuất luôn luôn thay đổi, với thời gian có khi lên tới vài năm. Chính vì thế hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là công tác hạch toán trọng tâm, không thể thiếu đối với các công trình xây dựng lắp đặt nói riêng và xã hội nói chung. Với nhà nước, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp là cơ sở để nhà nước kiểm soát vốn đầu tư xây dựng cơ bản và thu thuế. Với các doanh nghiệp muốn phát triển kinh tế bền vững lâu dài, ổn định phải tuân thủ theo đúng nguyên tắc thị trường. Do đó điều tiên quyết là doanh nghiệp phải ứng xử giá một cách linh hoạt hiểu rõ chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh để tìm cách giảm và bỏ những chi phí không cần thiết để thu được lợi nhuận. Muốn vậy, chỉ có hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chính xác đầy đủ các yếu tố đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh thì mới cung cấp được các thông tin chính xác cho quản lý.

docx84 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1160 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty 789-BQP, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty 789-BQP LỜI MỞ ĐẦU Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất tạo ra cơ sở kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, sử dụng lượng vốn tích luỹ rất lớn của xã hội, đóng góp đáng kể vào GDP, là điều kiện thu hút vốn nước ngoài trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong xu hướng phát triển chung, đặc biệt trong cơ chế thị trường, lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản có tốc độ phát triển nhanh chưa từng có ở nước ta. Điều đó có nghĩa là vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng tăng lên. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao quản lý vốn có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí thất thoát trong điều kiện sản xuất xây dựng cơ bản trải qua nhiều khâu (thiết kế, dự toán, thi công, nghiệm thu ...)địa bàn sản xuất luôn luôn thay đổi, với thời gian có khi lên tới vài năm. Chính vì thế hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là công tác hạch toán trọng tâm, không thể thiếu đối với các công trình xây dựng lắp đặt nói riêng và xã hội nói chung. Với nhà nước, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp là cơ sở để nhà nước kiểm soát vốn đầu tư xây dựng cơ bản và thu thuế. Với các doanh nghiệp muốn phát triển kinh tế bền vững lâu dài, ổn định phải tuân thủ theo đúng nguyên tắc thị trường. Do đó điều tiên quyết là doanh nghiệp phải ứng xử giá một cách linh hoạt hiểu rõ chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh để tìm cách giảm và bỏ những chi phí không cần thiết để thu được lợi nhuận. Muốn vậy, chỉ có hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chính xác đầy đủ các yếu tố đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh thì mới cung cấp được các thông tin chính xác cho quản lý. Qua thời gian thực tập tại Công ty 789-BQP, nhận thức rõ vai trò, vị trí của vấn đề nên em chọn đề tài: Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty 789-BQP. Mục đích của đề tài là vận dụng lý thuyết về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp vào nghiên cứu thực tế vấn đề này tại công ty 789-BQP. Trên cơ sở đó phân tích những tồn tại nhằm góp phần nhỏ vào hoàn thiện công tác kế toán tại công ty . Để đạt mục đích trên, bố cục luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 3 phần chính : Phần I: Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Phần II: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty 789-BQP. Phần III: Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty 789-BQP. Qua bài viết này em xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Thầy giáo Phan Quang Niệm và các cô chú phòng tài chính kế toán Công ty 789-BQP đã hướng dẫn em hoàn thành bản luận văn. Do thời gian thực tập và kiến thức có hạn, bản luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo của thầy giáo. PHẦN I LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH XÂY LẮP I- ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XÂY LẮP CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Kinh doanh xây lắp là nghành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm tạo ra cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế Quốc Dân. Thông thường công tác xây dựng cơ bản do các đơn vị xây lắp nhận thầu tiến hành. Hơn nữa nghành xây lắp có đặc thù, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nghành xây lắp có những đặc điểm riêng biệt khác với ngành sản xuất khác: -Sản phẩm của ngành xây lắp là những công trình, hạng mục công trình, vật kiến trúc...có qui mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian thi công dài, giá trị công trình lớn...Do vậy, việc tổ chức quản lý và hạch toán nhất thiết phải có dự toán thiết kế, thi công. Đặc biệt dự toán chi phí là cơ sở cho các khoản chi khi tiến hành xây lắp. -Sản phẩm xây lắp thường cố định tại nơi sản xuất còn yếu tố tiến hành sản xuất vận động theo địa điểm sản phẩm. Do đó, đặc điểm này gây khó khăn cho công tác quản lý, làm tăng chi phí sản xuất chung. Sản phẩm của nghành xây lắp hoàn thành không nhập kho mà thường được tiêu thụ trước khi tiến hành sản xuất theo dự toán hoặc giá cả thoả thuận với chủ đầu tư. Do đó, tính chất hàng hoá của sản phẩm thể hiện không rõ. Tổ chức sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp ở nước ta hiện nay phổ biến theo phương thức: “khoán gọn” các công trình, hạng mục công trình, khối lượng hoặc công việc cho các đơn vị trong nội bộ đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp (đội, xí nghiệp...). Trong giá khoán gọn không chỉ có tiền lương mà còn đầy đủ các chi phí vật liệu, công cụ, dụng cụ thi công, chi phí chung cho bộ phận nhận khoán. Những đặc điểm hoạt động kinh doanh, đặc điểm sản xuất, đặc điểm tổ chức sản xuất và quản lý ngành nói trên phần nào chi phối công tác kế toán trong nghiệp xây lắp, dẫn đến những khác biệt nhất định. Xuất phát từ quy định về lập dự toán công trình xây dựng cơ bản theo từng khoản mục chi phí cũng như đặc điểm tại các đơn vị nhận thầu, kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp có đặc điểm sau: + Kế toán chi phí nhất thiết phải được phân tích theo từng khoản mục chi phí, từng hạng mục công trình cụ thể nhằm thường xuyên so sánh, kiểm việc thực hiện dự toán chi phí. Qua đó, xem xét nguyên nhân vượt kế hoạch, hụt dự toán và đánh giá hiệu quả kinh doanh. + Đối tượng hạch toán chi phí có thể là toàn bộ công trình, hạng mục công trình, các đơn đặt hàng, các giai đoạn kỹ thuật quy ước. + Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị thiết bị do chủ đầu tư đến để lắp đặt mà chỉ bao gồm những chi phí do doanh nghiệp xây lắp bỏ ra có liên quan đến xây lắp công trình. Bởi vậy, khi nhận thiết bị do đơn vị chủ đầu tư bàn giao để lắp đặt, giá các thiết bị được ghi vào bên Nợ TK002 “ Vật tư, hàng hoá nhận giữ hộ, nhận gia công hộ”. + Giá thành công tác xây dựng và lắp đặt kết cấu bao gồm giá trị vật kết cấu và các giá trị thiết bị kèm theo như các thiết bị vệ sinh, thiết bị thông gió, điều hoà nhiệt độ, thiết bị truyền dẫn... Với các đặc điểm đó, ngành xây lắp không thể sử dụng y nguyên chế độ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm như Bộ Tài Chính đã ban hành mà phải vận dụng cho phù hợp nhưng vẫn tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của hạch toán chi phí và giá thành sản phẩm. Đồng thời, đảm bảo cung cấp số liệu trung thực, kịp thời, giúp cho lãnh đạo ra quyết định nhanh chóng và đúng đắn. II- BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG KINH TẾ CỦA CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP 1- Chi phí xây lắp 1.1 Khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất trong xây lắp Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp là quá trình biến đổi một cách có ý thức, có mục đích các yếu tố đầu vào thành các công trình, lao vụ nhất định. Các yếu tố về tư liệu sản xuất, đối tượng lao động (mà biểu hiện cụ thể là các hao phí về lao động vật hoá) dưới sự tác động có mục đích của sức lao động (biểu hiện là hao phí về lao động sống) qua quá trình biến đổi sẽ tạo ra sản phẩm. Để đo lường các hao phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong thời kỳ nhằm tổng hợp, xác định kết quả đầu ra, phục vụ nhu cầu quản lý thì mọi hao phí cuối cùng đều được biểu hiện bằng thước đo tiền tệ và gọi là chi phí sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động kinh doanh xây lắp, chi phí sản xuất là toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong một kỳ kinh doanh nhất định liên quan đến việc xây dựng, lắp đặt công trình. Chi phí về lao động sống bao gồm: chi phí tiền lương, hoặc tiền công trích BHXH, BHYT, KPCĐ. Còn chi phí về lao động vật hoá bao gồm: chi phí nguyên - nhiên liệu, chi KHTSCĐ... Tất cả các chi phí để phục vụ trực tiếp cho việc tiến hành sản xuất mà doanh nghiệp bỏ ra trong một kỳ nhất định được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ. 1.2 Phân loại chi phí sản xuất: Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp kinh doanh xây lắp bao gồm nhiều loại có nội dung kinh tế khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng khác nhau. Với lý do trên, để phục vụ cho công tác quản lý chi phí sản xuất và kế toán tập hợp chi phí sản xuất, có thể tiến hành phân loại chi phí sản xuất theo từng tiêu thức khác nhau. Việc hạch toán chi phí sản xuất theo từng tiêu thức sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin, là cơ sở cho việc phấn đấu giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng và tăng cường hạch toán kinh tế trong các đơn vị xây lắp. Thông thường chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp được phân loại theo tiêu thức sau: *Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố: Theo cách phân loại này, các chi phí có cùng nội dung, tính chất kinh tế được xếp chung vào một yếu tố, không kể chi phí phát sinh ở đâu hay dùng vào mục đích gì trong quá trình sản xuất. Trong doanh nghiệp xây lắp bao gồm các yếu tố chi phí sau: Chi phí nguyên vật liệu như: xi măng, sắt thép, cát, sỏi, gạch, vôi... Chi phí công cụ, dụng cụ như: cuốc xẻng, cốt pha, máy dầm, máy bơm... Chi phí tiền lương của công nhân trực tiếp, gián tiếp, lao động thuê ngoài, trích BHXH, BHYT, KPCD... Chi phí KHTSCĐ, máy móc thiết bị. Chi phí dịch vụ mua ngoài. Chi bằng tiền khác. Việc phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố cho biết kết cấu tỷ trọng từng yếu tố chi phí sản xuất để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, là cơ sở để lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương, kế hoạch về vốn giúp cho việc thực hiện công tác kế toán cũng như công tác quản lý chi phí sản xuất. *Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí: -Chi phí trực tiếp: Là những chi phí có liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất ra một loại sản phẩm, một công việc nhất định bao gồm nguyên vật liệu xây dựng, tiền lương công nhân viên sản xuất, khấu hao máy móc thiết bị thi công. -Chi phí gián tiếp: Là những chi phí sản xuất có liên quan đến việc sản xuất ra nhiều loại sản phẩm, nhiều công việc thường phát sinh trong quá trình quản lý. Vì vậy, kế toán phải tiến hành phân bổ các đối tượng liên quan theo một tiêu thức thích hợp. Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách chính xác và hợp lý. *Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục: Phân loại theo cách này, căn cứ vào mục đích và công dụng của chi phí trong sản xuất để chia thành các khoản mục chi phí khác nhau, mỗi khoản mục chi phí gồm các chi phí có cùng mục đích và công dụng. Có bốn khoản mục sau: -Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao toàn bộ các khoản hao phí nguyên vật liệu mà đơn vị xây lắp bỏ ra để cấu tạo nên thực thể công trình như vật liệu chính-phụ, các cấu kiện bê tông, phụ gia, giàn giáo, ván khuôn... -Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm tiền lương và các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương, tiền công trả cho công nhân xây lắp. -Chi phí máy thi công: Bao gồm toàn bộ các khoản chi phí mà đơn vị xây lắp bỏ ra có liên quan trực tiếp đến việc sử dụng máy thi công phục vụ cho xây dựng, lắp đặt các công trình các hạng mục công trình (máy thi công không biệt là của đơn vị hay đi thuê ngoài) -Chi phí sản xuất chung: Là toàn bộ các khoản chi phí phát sinh trong phạm vi các đội xây lắp (trừ ba loại chi phí đã kể trên) bao gồm: Tiền lương và các khoản trích tiền lương của bộ phận quản lý đội, chi phí hội họp, tiếp khách... Phương pháp phân loại chi phí theo khoản rmục giúp cho việc quản lý chi phí theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm, lập kế hoạch giá thành và chi phí sản xuất cho kỳ sau. 2-Giá thành sản phẩm xây lắp 2.1 Khái niệm và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm Trong sản xuất, chi phí chỉ là một mặt thể hiện sự hao phí. Để đánh giá chất lượng kinh doanh của các tổ chức kinh tế, chi phí phải được xem xét trong mặt thứ 2 cũng là cơ bản của quá trình sản xuất, đó là kết quả thu được. Mối quan hệ này đã tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá bỏ ra để tiến hành sản xuất một khối lượng sản phẩm, dịch vụ, lao vụ nhất định hoàn thành. Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí chi ra như chi phí nguyên vật liệu chi phí máy thi công...tính bằng tiền để để hoàn thành một khối lượng sản phẩm xây lắp nhất định, có thể là một hạng mục công trình hoặc một công trình hoàn thành toàn bộ. Giá thành sản phẩm xây lắp là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm đạt được mục đích sản xuất được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí ít nhất và hạ giá thành. Giá thành sản phẩm xây lắp bao gồm bốn khoản mục sau: -Khoản mục chi phí vật liệu. -Khoản mục chi phí nhân công. -Khoản mục chi phí máy thi công. -Khoản mục chi phí sản xuất chung. 2.2 Phân loại giá thành trong xây lắp: Căn cứ vào cơ sở số liệu để tính giá thành thì có 3 loại giá thành xây lắp: Giá thành dự toán là tổng số các chi phí dự toán để hoàn thành một khối lượng sản phẩm xây lắp. Giá thành dự toán được lập trước khi tiến hành xây lắp dựa trên cơ sở các định mức thiết kế được duyệt và khung giá qui định đơn giá xây dựng cơ bản hiện hành. Giá thành dự toán (Zdt) được tính như sau: Z dt = giá trị dự toán công trình - phần lợi nhuận định mức hạng mục công trình Giá thành kế hoạch (Zkh): được xây dựng từ những điều kiện cụ thể của doanh nghiệp trên cơ sở phấn đấu hạ giá thành so với giá thành dự toán bằng những biện pháp tăng cường quản lý kỹ thuật, vật tư, thi công, các định mức và đơn giá áp dụng trong các doanh nghiệp xây lắp: Zkh = Zdt - Mức hạ giá dự toán. Với doanh nghiệp không có giá dự toán thì giá thành kế hoạch được xác định trên cơ sở giá thành thực tế của năm trước và các định mức kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp là cơ sở đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và hạ giá thành doanh nghiệp . -Giá thành thực tế (Ztt): Xác định khi hoàn thành công tác xây lắp trên cơ sở chi phí thực tế liên quan đến từng công trình xây lắp, bao gồm : các phí tổn theo định mức, vượt định mức, không định mức (như: thiệt hại về ngừng sản xuất thiệt hại do phá đi làm lại, các lãng phí về vật tư, lao động trong quá trình thi công ) Việc so sánh giá thành thực tế với giá thành kế hoạch và giá thành dự toán cho phép đánh giá trình độ quản lý của doanh xây lắp đó trong mối quan hệ với doanh nghiệp khác, cho phép đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện cơ cở vật chất, trình độ tổ chức quản lý của bản thân doanh nghiệp . Vì doanh nghiệp xây lắp có thời gian thi công dài nên để theo dõi chặt chẽ những chi phí phát sinh doanh nghiệp xây lắp có sự phân chia giá thành thực tế thành: + Giá thành thực tế công tác xây lắp: phản ánh giá của một khối lượng công tác xây lắp đạt đến một điểm dừng kỹ thuật nhất định. Nó cho phép xác định kiểm kê kịp thời chi phí phát sinh để kịp thời điều chỉnh cho thích hợp ở những giai đoạn sau và phát hiện những nguyên nhân gây tăng giảm chi phí. +Giá thành thực tế công trình hạng mục công trình hoàn thành là toàn bộ chi phí phát sinh ra để tiến hành thi công một công trình hạng mục công trình từ khi chuẩn bị đến khi thi đưa vào sử dụng. Ngoài ra, trong xây dựng cơ bản nên phân biệt khi sử dụng các chỉ tiêu mà thường gọi là giá thành nhưng thực chất là giá bán như: -Giá dự thầu công tác xây lắp: là một loại giá thành do chủ đầu tư đưa ra để các doanh nghiệp xây lắp dựa vào tính giá thành của mình. -Giá đấu thầu công tác xây lắp: Là loại giá thành dự toán xây lắp ghi trong hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và doanh nghiệp xây lắp sau khi thoả thuận giao nhận thầu. Đó cũng chính là giá bán của doanh nghiệp xây lắp thắng thầu và được chủ đầu tư thoả thuận ký hợp đồng giao thầu. Về nguyên tắc giá thành chỉ được nhỏ hơn hoặc bằng giá đấu thầu công tác xây lắp. 3- Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có mối liên hệ chặt chẽ biện chứng với nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Chúng đều giới hạn để tập hợp chi phí nhằm phục vụ cho công tác quản lý, phân tích và kiểm tra công tác giá thành. Giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau bên trong nó là chi phí sản xuất và lượng giá trị sử dụng thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm, công việc đã hoàn thành. Như vậy bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch giá trị của những yếu tố chi phí vào sản phẩm, công việc nhất định đã hoàn thành. Hơn nữa chi phí biểu hiện về mặt hao phí, còn giá thành biểu hiện về mặt kết quả của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt thống nhất của một quá trình. Vì vậy chúng giống nhau về mặt chất. Chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp đều bao gồm các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên do bộ phận chi phí sản xuất không đồng đều nên chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm khác nhau về lượng. Điều đó được thể hiện ở sơ đồ sau: CPSXKDDDĐK Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ A B C D Tổng giá thành sản phẩm CPSXKDDDCK Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD- CD Tổng giá thành sản phẩm xây lắp = Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ + Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ - Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Như vậy, nếu chi phí sản xuất là tổng hợp những chi phí phát sinh trong một thời kỳ nhất định thì giá thành sản phẩm lại là tổng hợp những chi phí chi ra gắn liền với việc sản xuất và hoàn thành một khối lượng công việc xây lắp nhất định được nghiệm thu bàn giao, thanh toán. Giá thành sản phẩm không bao hàm những chi phí cho khối lượng công việc dở dang cuối kỳ, những chi phí không liên quan tới hoạt động sản xuất, những chi phí chi ra nhưng chờ phân bổ kỳ sau. Nhưng chi phí sản xuất lại bao gồm những chi phí sản xuất kỳ trước chuyển sang, những chi phí trích trước vào giá thành nhưng thực tế chưa phát sinh và những khoản chi phí của kỳ trước chuyển sang phân bổ cho kỳ này. Giữa ba loại chi phí sản xuất xây lắp và 4 khoản mục giá thành xây lắp có mối liên hệ với nhau thể hiện ở sơ đồ sau: -Chi phí nguyên vật liệu -Chi phí vật tư cho thi công xây lắp. -Chi phí vật tư cho máy thi công -Khoản mục vật liệu trực tiếp -Chi phí nhân công -Lương công nhân trực tiếp xây lắp -Lương công nhân điều khiển MTC -KPCĐ, BHXH, BHYT của công nhân thuộc hợp đồng dài hạn. -Khoản mục nhân công trực tiếp -Khoản mục máy thi công -Chi phí chung -KH và SCK MTC, chi phí thuê máy, chi động lực cho chạy máy -Chi phí cho bộ máy quản lý DN -Khoản mục chi phí chung III- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH XÂY LẮP 1- Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất 1.1 Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất thực chất là xác định phạm vi hay giới hạn của chi phí nhằm phục vụ cho việc kiểm tra, phân tích chi phí và giá thành sản phẩm. Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất phải căn cứ vào: +Tính chất sản xuất và quy trình sản xuất: Đơn giản hay phức tạp, quy trình công nghệ liên tục hay song song. +Loại hình sản xuất: Sản xuất đơn chiếc hay hàng loạt. +Đặc điểm tổ chức sản xuất. +Yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp Sản xuất xây lắp có quy trình công nghệ phức tạp và loại hình sản xuất đơn chiếc, thường phân chia thành nhiều khu vực, bộ phận thi công. Mỗi hạng mục cấu tạo vật chất khác nhau và đều có thiết kế riêng và dự toán riêng. Mặt khác, đơn vị tính giá thành có thể là công trình, hạng mục công trình hoàn thành hay từng giai đoạn công nghệ...nên tuỳ thuộc công việc cụ thể, tuỳ thuộc trình độ quản lý của từng doanh nghiệp mà có đối tượng hạch toán chi phí khác nhau, có thể là: công trình hạng, mục công trình, từng đơn đặt hàng, từng giai đoạn công việc. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên cần thiết của công tác k
Tài liệu liên quan